Trong cuốn sách Xứ Mạ Lãnh Thổ Của Thần Linh (Nggar Maa’, Nggar Yàng),[i] Jean Boulbet có trưng dẫn một vài sự biến âm trong từ vựng và một vài khác biệt về từ ngữ của Kòn Cau,[ii] từ trang 28 đến trang 31 của cuốn sách. Qua nội dung này và thực tế cho thấy có sự biến âm và khác biệt về vốn từ vựng trong cộng đồng Kòn Cau. Tuy là cùng tộc người, nhưng có nhiều chi tộc khác nhau, mức độ biến đổi trong âm vực của một số từ khác nhau và cộng đồng này nằm tại ngã ba, ngã tư con đường giao thoa vốn từ vựng của họ rất phong phú. Điều này đồng nghĩa họ có khả năng giao tiếp với nhiều chi tộc khác mà họ tương giao. Bài viết này nhằm đề cập đến vấn đề này để thấy sự phong phú trong phương ngữ Kòn Cau.
Mạ và M’Nông trong sự liên hệ gốc gác từ câu truyện cổ:
Để đi vào vấn đề này, ta cùng nhau tìm hiểu mối liên đới của cộng đồng Mạ và người M’Nông. Trong bài viết gần đây, người viết cũng đã có trình bày sự liên đới cộng đồng này qua tên tự định danh “Kòn Cau.” Bạn đọc có thể tham khảo tại đây.
Cô giáo H’Plơ có kể lại câu truyện cổ “Con Chung Một Mẹ,” nội dung của câu truyện này đã nói đến mối liên hệ gốc gác trong việc hình thành nên tộc người Prum (Chăm), Kòn Cau (người Tây Nguyên nói chung) và Yoan (người Việt). Câu truyện này có nét tương đồng với câu truyện về Grup, Gram, Grau của xứ Mạ. Ở đó, ba tộc người được sinh ra từ ba chị em (câu truyện của cô giáo H’Plơ thì là ba chị em, trong đó có một em trai). Ba chị em này có cùng một tổ tiên. Do dịch chuyển ba hướng khác nhau, ba tộc người khác nhau được sinh ra. Câu truyện cổ của cô H’Plơ cũng nói đến sự hình thành xứ Mạ như thế nào. Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm tại đây. Như vậy chúng ta nhận thấy rằng, dường như hai tộc người Mạ và M’Nông có sự liên đới về gốc gác.
Sự biến âm trong ngôn ngữ:
Qua nghiên cứu của Jean Boulbet, Jacques Dournes và George Condominas, các tác giả cho biết: Trong tiếng M’Nông, ở đây là nhánh M’Nông Gar, có nhiều nét tương đồng trong ngôn ngữ, đặc biệt có nhiều từ vựng âm vực và ngữ nghĩa tương tự nhau. Tuy nhiên có một số nét khác biệt sau:
-
“Âm bít” được thêm vào sau một âm dài trong từ ngữ của tiếng Mnong Gar. Ví dụ:
Mạ |
M’Nông Gar |
Dà |
Dàk |
gŭc |
gùc |
Ñim |
Ñĭm |
Như vậy, âm cuối trong tiếng M’Nông Gar thường được nhấn (kéo dài) hơn trong tiếng Mạ qua một số từ vựng chung. Đây được gọi là âm bít. Trong ngôn ngữ học, “âm bít” là một loại âm thanh ngắn thường xuất hiện sau một âm thanh dài trong từ ngữ của một số ngôn ngữ. Nó có thể là một loại âm tắc, phụ âm hoặc nguyên âm ngắn.
Sự khác biệt trong các biến âm (âm tiết thay đổi) mà người ta chú ý trong tiếng Mạ, và cho rằng những biến âm này là do tình cảnh của họ, trong cùng một nhóm ngôn ngữ với người Srê ở phía Đông, người M’Nông ở phía Bắc và người Stiêng Bu Dih ở phía Tây. Căn cứ vào dữ liệu từ phương ngữ Srê đã được thu thập và ghi lại trong từ điển của Dournes, tác giả xác định rằng:
– Nhị trùng âm ia tiếng Srê là iơ tiếng Mạ.
Thuật ngữ “nhị trùng âm” (diphthong) đề cập đến một cụm âm gồm hai nguyên âm được phát âm liên tiếp trong cùng một âm tiết mà tạo thành một âm tiết duy nhất. Trong trường hợp của câu trên, “nhị trùng âm ia” trong tiếng Srê có thể tương đương với âm “iơ” trong tiếng Mạ, tức là hai nguyên âm “i” và “a” được phát âm liên tiếp trong một âm tiết.
Mạ |
Srê |
iơr |
iar |
piang (piêng) |
piang (pia’ng) |
niam (niềm) |
niam (nia’m) |
– Tất cả tiếng có hai vần mà vần đầu có một chữ ơ, được thực hiện bởi một nhóm phụ âm của tiếng Mạ. Vần đầu được rút ngắn rồi giảm lại ở phụ âm độc nhất của nó hoặc bị hủy bỏ tất cả nữa.
Nội dung này mô tả một quy luật âm vị học trong tiếng Mạ. Theo quy luật này, các từ trong tiếng Mạ thường có một vần đầu bắt đầu bằng chữ “ơ”, và sau đó là một nhóm phụ âm cố định. Vần đầu này thường được rút ngắn hoặc thậm chí bị loại bỏ hoàn toàn, đặc biệt là khi nó được kết hợp với một phụ âm độc nhất (phụ âm xuất hiện một mình) của nó. Điều này làm cho từ vựng tiếng Mạ có sự biến đổi và đa dạng trong cách âm tiết được tổ chức và phát âm.
Ví dụ :
Mạ |
Chi tộc khác |
Bơnơm |
nơm |
sơmpa |
mpa |
lơgar |
n’gar |
– Ở tiếng Mạ Cóp (Maa’ Coop) các chữ T thường rất được đọc C giọng lướt. Chữ cuối bằng Ko được nhị trùng âm hóa thành Kau, chữ cuối bằng E thành Ai, các chữ S vừa được đọc rít hơi, hít hơi và viết là Ch hay H ở cuối.
-
Chữ T thường được phát âm như “C” giọng lướt: Điều này ngụ ý rằng âm “T” thường được phát âm như “C” với một giọng điệu lướt hoặc mềm mại hơn.
Ví dụ:
Trờk |
Cờk |
Tơlah |
Cơlah |
Tơpài |
Cơpài |
-
Chữ cuối bằng “Ko” được nhị trùng âm hóa thành “Kau”: Khi chữ cuối cùng của một từ là “Ko”, nó có thể được nhị trùng âm hóa thành “Kau.”
Ví dụ:
Ngko |
ngkau |
rơko |
rơkau |
Klàng kô |
Klàng kau |
-
Chữ cuối bằng “E” được nhị trùng âm hóa thành “Ai.”: Khi chữ cuối cùng của một từ là “E,” nó có thể được nhị trùng âm hóa thành “Ai.”
Măttơnghe |
Măttơngai |
Mătkhe |
Mătkhai |
Kòn se |
Kòn Sai |
-
Chữ S có thể được phát âm như “Ch” hoặc “H” ở cuối từ: Chữ “S” trong tiếng Mạ có thể được phát âm như “Ch” hoặc “H” ở cuối từ, có thể là do sự biến đổi âm thanh trong ngữ cảnh hoặc ngữ điệu.
đơs |
đih |
bơdìh (ìh: ì:s) |
Bơdĭh (ih: ĭh) |
rài kis (kì:s) |
rài kih (kĭ:h) |
– Ở xứ Bơlơ (Bơlơ), ngã ba ngôn ngữ (Mạ, Stiêng, Mnông), các biến âm được đánh dấu từ làng này sang làng khác và khó nói là phương ngữ đích thực Bơlơ. Căn bản của từ vựng tuy vậy còn là tiếng Mạ nhưng là tiếng Mạ nói không còn giọng của nhóm nữa mà là của làng.
Điều này có nghĩa là:
-
Ngã ba ngôn ngữ: Xứ Bơlơ có sự giao thoa của ba ngôn ngữ chính là Mạ, Stiêng và M’Nông. Sự hiện diện của ba ngôn ngữ này tạo ra một môi trường phức tạp với nhiều ảnh hưởng và đa dạng ngôn ngữ.
-
Các biến âm được đánh dấu từ làng này sang làng khác: Các biến âm (âm tiết thay đổi) được đánh dấu và lan truyền từ làng này sang làng khác. Điều này làm cho ngôn ngữ ở mỗi làng có những đặc điểm phát âm và ngữ điệu riêng.
-
Khó nói là phương ngữ đích thực Bơlơ: Sự phức tạp trong việc lan truyền các biến âm và ảnh hưởng của ba ngôn ngữ chính tạo ra một sự đa dạng ngôn ngữ phức tạp. Do đó, việc xác định một phương ngữ “đích thực” của Bơlơ trở nên khó khăn.
-
Căn bản của từ vựng là tiếng Mạ nhưng có giọng của làng: Dù căn bản của từ vựng có xuất phát từ tiếng Mạ, nhưng cách phát âm và ngữ điệu thường mang dấu ấn của làng đó, tạo ra sự đa dạng ngôn ngữ đặc trưng cho mỗi làng trong xứ Bơlơ.
Những biến âm trong từ vựng không thay đổi:
Sre |
Cau Tô |
Mà |
Còp |
Bơlơ |
M’Nông |
(Rựa) Yuas |
yơs |
yơs |
wiơh |
wiơh |
wiah |
(Voi) ruas |
ruơs |
ruơs |
ruơh |
rueh |
rueh |
(Tre lớn) kơrla |
krla |
krla |
rla |
Rla |
Rla |
(nhẫn) sơmbiat |
mbiơt |
mbiơt |
mbiơt |
mbiet |
mbiat |
(Trâu) rơpuh |
rpuh |
rpuh |
puh |
puh |
puh |
(Dây leo) che |
che |
che |
chai |
chai |
chai |
(nỏ) sơna |
sna |
sna |
na |
na |
sna |
(ghềnh, thác) liang |
liơng |
liơng |
liơng |
lieng |
lieng |
Những biến đổi địa phương về từ vựng:
Những biến đổi này xảy ra nhất là giữa những xứ miễn ngược (Mà Tô) và xử miền xuôi ở Tây – Bắc bắt đầu với người Cóp. Phương ngữ Cóp và Mạ Huang về quan điểm này là phương ngữ phong phú nhất trong đó các danh từ phía Đông và danh từ phía Tây – Bắc gặp nhau. Người ta bắt gặp các danh từ này thành những tiếng đồng căn dị nghĩa.
-
Sự biến đổi và đa dạng ngôn ngữ thường xuất hiện đặc biệt nhiều giữa các khu vực miền ngược (Mà Tô) và miền xuôi ở Tây-Bắc. Điều này có thể là do sự cách biệt về địa lý, văn hóa và giao lưu văn hóa giữa các khu vực này.
-
Trong số các phương ngữ, Cóp và Mạ Huang được coi là phong phú nhất về quan điểm ngôn ngữ. Điều này có thể ám chỉ rằng những khu vực này có nhiều biến thể và đa dạng ngôn ngữ đặc biệt.
-
Có sự giao nhau giữa các danh từ từ phía Đông và phía Tây-Bắc, tạo ra một sự phong phú và đa dạng trong ngôn ngữ. Điều này có thể phản ánh sự ảnh hưởng và giao thoa văn hóa giữa các khu vực.
-
Người ta có thể gặp các danh từ được biến đổi thành các từ có nghĩa tương đương nhưng có nguồn gốc và phát âm khác nhau. Điều này thường xảy ra trong quá trình lan truyền và phát triển của ngôn ngữ.
Tô |
Còp Mà Huang |
Bơlờ & Preng (hữu ngạn Đạ Đờn) |
(con nai) Sơkàt |
kàt – jioh |
jioh |
(Khai) yal |
yal … prai |
prai |
(đường mòn) gùng |
gùng – tròng |
tròng |
(hổ thẹn) ƀàs |
ñĕh – ƀaih |
ñĕh |
(Sợ) Ngòt |
ngòt – phung |
phung |
(Cây bị hạ) bơrtôs |
rtôih – puih |
puih |
Srê |
Mà |
Còp |
Bơlờ |
Mnông (Tây – Nam) |
(Ống hút) boup |
ching |
guơt |
guơt |
guet |
(Tẩu thuốc) ding jrào |
plai ìu |
drang ìu |
pal moet |
drang moet |
(Đi) Lòt |
lòt |
chun |
an |
an, brò |
Qua nghiên cứu này, khảo sát thực tế hoặc tiếp cận các bản văn truyện cổ, chúng ta sẽ thấy có sự gần gũi mà dường như ngày nay ít ai để ý. Có thể ngay trong chính cộng đồng chúng ta, có những điểm khác biệt cơ bản được nêu trên trong cùng một tộc người và chúng ta cho đó là ngôn ngữ khác, nhưng khi phân tích dựa trên chuyên môn thì đó chỉ là sự biến âm. Sự nhận biết này sẽ giúp ích cho các bạn khi chúng ta tiếp cận bản văn Kinh Thánh bằng ngôn ngữ Sre.
Hy vọng bài viết này hữu ích cho mọi người!
[i] Jean Boulbet, Xứ Mạ Lãnh Thổ Của Thần Linh (Nggar Maa’, Nggar Yaang), Phân Viện nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật tại Thành Phố Hồ Chí Minh (NXB: Đồng Nai, 1999).
[ii] Kòn Cau là tên gọi người dùng để chỉ về người M’Nông Gar, Mạ, Sre, Cil, Làc, Stiêng.