Mới nhất

Những cây hữu ích của người Srê

Đóng góp thứ hai cho thực vật học dân tộc Đông Dương:

Những cây hữu ích của người Sré

Tác giả Jacques Dournes đã công bố nghiên cứu “Đóng góp thứ hai cho thực vật học dân tộc Đông Dương: Những cây hữu ích của người Sré” trong Tạp chí Nông nghiệp Nhiệt đới và Thực vật học Ứng dụng, tập 2, số 1-2, tháng 1-tháng 2 năm 1955, trang 64-86. Bài viết được trích dẫn với mã số DOI: https://doi.org/10.3406/jatba.1955.2203 và có thể truy cập trực tuyến tại https://www.persee.fr/doc/jatba_0021-7662_1955_num_2_1_2203. Tài liệu PDF được tạo vào ngày 01/05/2018.

I. Sử dụng thực phẩm (139 cây)

Cây trồng

Ngũ cốc: Gạo (Oryza sativa), gọi là koe, là cơ sở thực phẩm miền núi. Người Sré phân loại nhiều giống gạo như koe me, koe bon, koe phang, koe ke, koe rôyam, koe gôltau, koe mbar (bao gồm mbar il, mbar ce un, mbar sơkar, mbar jiring). Người Mir cũng có các giống tương tự như koe me, koe bôrkung, koe tir, koe wam, koe ke, koe rôyam, koe krong, koe mbar (bao gồm il sơkar, prang). Ngô (Zea mays, gọi là lôngôi) được trồng trong vườn và trên gương, tiêu thụ vào các tháng thiếu gạo, rất phổ biến. Các loại ngũ cốc thứ cấp trồng ở mir, trộn với thóc ở lượng nhỏ, bao gồm: mbo (Sorghum affine), ju’i (Setaria, kê), bbau (Setaria italica), jai (Eleusine coracana), và lônga (Sesamum indicum, vừng).

Quả ăn chín: Bí đỏ (Cucurbita, rôpual) là “vua của rau núi”, tất cả bộ phận (lá, hoa, quả, hạt) đều ăn được. Bí sáp (Benincasa cerifera, rôpual kuh) cũng có lá, hoa, quả, hạt ăn được. Dưa chuột (Cucumis, rôpung) chủ yếu dùng quả, thường ăn sống. Bầu (Lagenaria vulgaris, nhoung hoặc ling) có quả sấy khô với nhiều công dụng. Mướp (Luffa cylindrica, buÑ) là “bọt biển thực vật”. Cà tím (Solanum melongena, blôn ngan), các biến thể blôn krep, blôn ang (Solanum ferox, vị đắng), blôn làn (Solanum indicum, “cà tím cuối vụ”), và cà chua (Solanum lycopersicum, rnôsut), nhỏ và ngọt, thường ăn với cá. Cà priin (Solanum), nhỏ và đắng, dùng với thịt hoặc cá.

Quả ăn sống: Hạt tiêu (Capsicum annùm, mre’) được dùng rộng rãi trong mọi bữa ăn, với biến thể mre’ hak mạnh hơn. Chuối (Musa, prìt) rất phổ biến, gồm prìt ngan (phổ biến nhất), prìt kuh (vàng, ngắn), prìt pha (xanh, dài). Cam (Citrus sinensis, kroac), bưởi (Citrus grandis, kroac bum), chanh (Citrus medica, kroac caÑ), xoài (Mangifera, pồ), ổi (Psidium guajava, pòous), mít (Artocarpus integrifolia, pbnat, thường nấu chín), dứa (Ananas sativus, sôko), đu đủ (Carica papaya, blohong), carambola (Averrhoa carambola, kôya), và dừa (Cocos, lòu), phổ biến ở vùng thấp nhưng quả ít được dùng.

Rau nấu chín: Đậu (Phaseolus, khoah) có nhiều biến thể, đậu Java (Phaseolus lunatus, robae), và đậu saber (Canavalia ensiformis, pra’).

Củ: Khoai lang (Ipomoea batatas, bùm ngan), sắn (Manihot utilissima, bùm blàng), và gừng (Zingiber officinale, ca’), ít phổ biến.

Linh tinh: Rau sôbi (Nasturtium indicum) ăn như gỏi, hành (Allium cepa, han), tỏi (Allium sativum, toe), sả (Cymbopogon citratus, plang) làm gia vị cho thịt, và mía (Saccharum officinarum, tao) với các loại tao ngan, tao gle, tao phan, tao trang.

Cây trồng và cây dại

Khoai môn (Colocasia esculentum, trao) có củ và lá ăn được, loại tự nhiên chỉ dùng lá. Quả của khi (Trichosanthes) và biến thể kho được tiêu thụ. Khoai kleh hoặc dôrkleh (Dioscorea) có quả ăn được, loại tự nhiên khó hơn. Rau nha buÑ (Impatiens chinensis).

Cây tự nhiên

Lá nấu chín: Biap pu (Gnetum formosum var. Griffithii) là “nữ hoàng” thực vật tự nhiên, lá nấu chín hoặc chồi non (biap nse) hấp hơi. Các loại khác gồm cere (Monochoria hastafolia), tome (Centella asiatica), iam hum (Mentha crispa, bạc hà), plang bbnbm (Talauma hodgsoni), rohum lìt (Amaranthus viridis), rohum lò (Amaranthus spinosus), rohum ous hoặc rohum bang (rau dền khổng lồ), iam bdang (Aganonerion polymorphum), và iam podang.

Chồi và mặt trước: Tip ka (Passifloraceae), rôtuon (Diplazium esculentum), kang jùn (Lasia, “hàm hươu”), rôtô (Araceae).

Củ: Bùm tung (Dioscorea tubifera), bùm gbr (Dioscorea), bùm bbs (“tubercule-serpent”), pruh (Amomum repens), bùm bri (Ipomoea sp.).

Lá tiêu thụ: Loyong (Alternanthera sessilis), tiang so rhau (Polygonum orientale, “đuôi chó hoang”), sbkot (Ficus sp.), jbri sa (Ficus sp.), cbloa’ (Piper lolot), lan luot (Helicia), bonge sa (Thea sp.), bot kit ntiing (“xương ếch”), jbrlao (Guttiferae), iam kep (Antidesma), por àp (Oxalis corniculata), tang lang (Cissus sp.), ngo (Eryngium foetidum), biap krung (Oenanthe stolonifera), iam bong (Apocynaceae), iam e (Labiatae), cbdà (Trichosanthes tricuspidata), kbnda’ (Dichrocephala latifolia), hao liang (Haemaria otletae).

Trái cây: Pung ping (Tinospora sp.), ploui (Elaeagnus sp.), nchb (Baccaurea sp.), lohyau (Phyllanthus emblica), mil (Tamarindus indica, me), bbÑang (Rhodomyrtus tomentosa, myrte), lò ti tàm (Rubus alceaefolius, “gai chân cua”), lò ruh (Rubus cochinchinensis), tbrÑà (Garcinia ferrea), blo (Dillenia ovata), gus (Castanopsis, hạt dẻ), do bò (Vaccinium bracteatum, giống việt quất).

Quả ăn được: Sormoan (Spondias mangifera), ka kồn (Salacia prinoides), nggum ddoung (Zizyphus oenoplia), go al (Pyrus sp.), ka’ (Entada sp.), rôba (Leguminosae), lò kôrlò (Lianda sp.), lò jôrmang iar (Cudrania javanensis, “gai mào gà”), nke be (Sterculia lanceolata, “sừng dê”), kra ja (Antidesma ghaesembilla), tôrja (Antidesma), pôdang (Melastoma villosum), gôboh (Ardisia crispa), ivàm glah (Ardisia dinhensis), sông ngrae (Embelia ribes), rôsiu (Pieris sp.), rôpung kôndda (Melothria diphylla, “dưa chuột sừng”), kras (Decaspermum paniculatum), phar pii (Diospyros kaki), toi toÑ (Araliaceae), rôtu’ (Trevesia hoặc Schefflera), bôrtis (Sandoricum indicum), piang ngìt (Grewia hirsuta, “gạo lạnh”), kôrmuh (Grewia paniculata), thap ur (Annonaceae, “tai ngược”), coryol (Melodorum schaefferi), chim gõ kiến (Artocarpus), cây (Ficus balansae), hoa (Ficus sp.), cây (Dracaena), cây xanh (Dracaena elliptica).

Tâm thân và chồi: Tre (Oxytenanthera, gle) và hầu hết các loại tre có lõi non ăn được. Các loại khác gồm dal bồmôm (Pseudodracontium), than (Palm), gồl tòồ (Phoenix farinifera), sra (Corypha), podin (Caryota), sôbir (Cau), rôsui (Calamus), jenau (Calamus), rôyah (Calamus).

Linh tinh: Nước ép từ chuối rừng (Musaceae, ju), nụ hoa nấu chín. Nấm (bôsit) hầu hết ăn được, với các loại chính như rias gle, nu’in, kra tau, jôngmai kôrn mher, ja, bôrtul, yah nha, tap bra, bôrlah, rôtet, ce rôpu.

Phụ lục:

– Cây làm bia: Thóc (koe) làm bia gạo, ngô (lôngôi) dùng ở người Cil, kê (ju’i) dùng ở người Noup. Cây làm men gồm dong (Plumbago rosea), pôrnous (Alectra indica), ca’young (Zingiberaceae), mblôn (Sideroxylon cambodianum), đôi khi thêm mre’ (ớt).

– Thuốc lá và trầu: Thuốc lá (Nicotiana rustica và N. tabacum, jirao) được xếp vào cây lương thực. Trầu (Piper betle, loha) nhai với cau (Areca sp., pônang), vỏ cây tôrneeng (Ficus), drui mhi (Pellionia), drui bò (Ficus), và quế (Cinnamomum zeylanica, kuii). Lá hap (Vitex annamensis) và vỏ liau’ có thể kèm theo. Trầu thay thế gồm nha blu (Michelia baillonii), jôrlồ (Smilax china).

– Thức ăn chăn nuôi: Lá sormoan (Spondias mangifera) cho dê, bui hon (Blyxa sp.) cho trâu, hoa boung krong (Dendrobium dalhousieanum) cho chó săn.

– Truyền dịch: Bri (Aganosma marginata) dùng như trà.

II. Sử dụng làm thuốc (105 cây, chủ yếu tự nhiên)

Chữa vết thương: Củ thưa ngài (Solanaceae) hàn thịt và gân. Quả chung lii (Aerides odoratum) giã nhuyễn. sơnơm sout (Curcuma sp.) bôi ngoài. Nha moung (Panicum hoặc Echinochloa) và don gle (Vittaria amboinensis) dùng quả nghiền.

Vết cắt liềm: sơnơm mò (Sacciolepis myosuroides).

Rắn cắn: sơnơm bôs (Sansevieria sp.) bôi ngoài. Kôryol (Melodorum schaefferi, me bôs) chống nọc độc.

Vết đốt/cắn: Ớt (Capsicum annùm, mre’) và cang lar (Canna indica) chống ong đốt.

Vết thương nhiễm trùng và bệnh da: Bột vàng từ quả tong (Aerides falcatum), bột củ bôsir (Habenaria sp.), bon là (Globba schomburgkii) cầm máu, chung bbang (Spathoglottis lobbii) chữa vết thương chiến đấu.

Áp xe sưng tấy: Vết rut (Pavetta indica) bôi ngoài, da rồ (Cassia mimosoides).

Bệnh da (mụn, mẩn): Rôtuôn (Diplazium esculentum) làm thạch cao, lá khô bbang srah (Embelia ribes), lá mbu (Eugenia sp.).

Ghẻ: Lá giã kôrdda (Harrisonia perforata), tắm với rôgom (Blumea balsamifera).

Đậu mùa: Tắm với jôrkồ botang (Dysoxylon sp.) hoặc lá phang (Leea rubra).

Thủy đậu: Xông hơi op kam (Emilia sonchifolia) hoặc sơnơm krang (Adiantum flabellulatum).

Bệnh thông: Nước lá giã krà (Cassia alata), bôi ngoài, bệnh nhân ở trần một mình. Cà tím (Solanum melongena, blon) và blon ang (Solanum ferox).

Vết ban do bbang cal: Bột củ romit (Curcuma sp.), priin (Solanum sp.), nước lá podang (Melastoma villosum).

Gãy xương: Iorbo ntiing (“tập hợp xương”).

Cầm máu: Bột xám từ viên nang bbung bbang (Calanthe lotifolia), loại bỏ đỉa.

Sâu răng: Brôso (Clerodendron serratum), lom lồm (Glochidion), prui kra dà (Davallia lorrainii), kon lan (truyền dịch), um luÑ (“bain-gen cives”).

Bệnh mắt: Xông hơi broso (Dichroa febrifuga), khói ja (Imperata cylindrica), lá prui sôntur (Helminthostachys zeylanica, nha càp).

Đau bụng: Nhựa klồng (Dipterocarpus obtusifolius), nhai quả lôhyau (Phyllanthus emblica), long kul (ký sinh).

Viêm họng: Quả iam e (Labiatae).

Ho: Quế (Cinnamomum zeylanica, kuii), long co (hoa lan), củ thanh.

Ngứa ngón chân: Lá sormoan (Spondias mangifera) nấu chín.

Vết nứt bàn chân: Ku (Diplazium lobbiatum).

Môi nứt: Tii (Careya sphaerica).

Phong thấp, đau thần kinh: Ma sát với dôrpa (Bryophyllum calycinum), bbang srà (Euphorbiaceae), boupis (khâu hông), củ sơnơm ji nhung (Zingiberaceae), ji bon (Rubiaceae).

Lá lách: Tắm với nha là (Cirrhopetalum sp.).

Sốt rét: Đeo vòng bơlìl (Cocculus thunbergii), ăn bbang à (Anacolosa sp.), truyền dịch bonge krong (Parabarium quintaretii).

Bệnh chung: Tắm với dom (Dendrobium sp.), thuốc sắc kồp màng (Clerodendron cyrtophyllum), phơi cơ thể với nha lôs.

Sinh nở: Uống nước sắc da se (Ixora euneifolia). Cây jôrai (Tetrastigma sp.) gây động kinh ở trẻ, chữa bằng cùng cây. Các cây khác: bong, sômba, pôjir, jôrngae, côrang dao, cit kring, ding, ca’ young.

Chăm sóc động vật: sơnơm tôbung (Zingiberaceae) diệt lươn, kôdak (Mallotus philippinensis) diệt giòi, jôras (Cissus sp.) trị giun trâu, jis rôhae (Fagraea obovata) đuổi ruồi.

Thuốc trừ sâu: Rôgôm (Blumea balsamifera) trị bọ chét, sômac (hợp chất phóng xạ) đuổi muỗi, nha tip (Desmodium pulchellum) đuổi gián, gôltôn (Ilex sp.) diệt bọ ve, jôras (Cissus) diệt giun, lompat (Sapindus mukorossi) đuổi đỉa, krau’ (Engelhardtia sp.) và kôrlong diệt đỉa nước.

Chăm sóc lúa: Chống sâu bướm bằng bó hoa chín cây lễ klàng kôltôk: tii (Careya sphaerica), bbang cal (Buchanania), nha koe (Eurya japonica), klot (Gnetum latifolium), pho tà (Pinus khasya), chir (Arundo madagascariensis), trum (Cyclacanthus coccineus), blo (Dillenia ovata), krae (Memecylon edule), và ba cây bó kônep: broso (Clerodendron), than bùn klan (Scindapsus), plai phang (Leea). Các cây khác: koe tròn (Indigofera galegoides), krae tu (Breynia rhamnoides). Vỏ kôriang (Eugenia jambolana) đuổi lợn rừng.

Chất độc: Củ jôrlo (Smilax china) gây tử vong, hơi nấu chín dẫn qua ống tạo nước chữa bệnh. Bônge khih (Gelsemium elegans và Jasminum sp.) từng dùng đầu độc. Vỏ kodà (Moringa sp.), blôn kliiu (Datura fastuosa), jàr (tẩm mũi tên), dàco (bị hủy).

III. Sử dụng công nghiệp (214 cây)

Gỗ xẻ

Gỗ tốt: Klồng (Dipterocarpus obtusifolius) dùng làm cột nhà, chịu nước tốt. Pông gir (Hopea odorata và ferrea) dùng xây dựng, ca nô, chuông trâu. Cha (Quercus hoặc Pasania) làm tà vẹt, khung, trục cày. Koloang (Dipterocarpus alatus) làm trụ cầu. Các loại khác: jôrang bồ (Xerotium), ropas (Xylia dolabriformis), pônang dou (Michelia baillonii), jorkồ botang (Dysoxylon), pồ bri (Psychotria), pồ rôpae (Craibiodendron stellatum), jôrngas (Pithecolobium clypearia), bubo (Machilus).

Cột nhà: Bubo, cori (Shorea obtusa), bubo bônôm (Symphyllia silhetiana), jôrang los (Dysoxylon), ddang (Terminalia chebula), kôndias ong.

Thanh ngang dài: Jồng ti (Knema), jôrung.

Tấm ván: Pônal (Artocarpus integrifolia), kriang ce dde (Ilex), tôyong (Litsea), jôrlao (Guttiferae).

Nhạc cụ nông nghiệp: Mhi (Quercus setulosa), mhi bò (Photinia), jis (Lonicera), mpran (Eugenia zeylanica), kôrddo, Ñhàl (Elaeocarpus), kôrmui (Derris), guÑ (Millettia), brus (Garcinia), nke la (Ligustrum).

Chạm khắc quan tài: Nho sàr (Pinus merkusii), klan ding (Schima crenata), sôrmoan (Spondias mangifera), kôrtiing (Albizzia lebbekoides).

Gỗ cứng cho việc nhỏ: Kôrddo (Harrisonia perforata), pồ dà (Elaeocarpus grandiflorus), lulò (Premna cambodiana) làm nỏ. Kôriang (Eugenia jambolana), mriat (Pithecolobium), mac (Premna latifolia) làm chuông, cối gạo. Piap (Wendlandia) làm ống, bôrÑac (EvoÑmus cochinchinensis) làm lược.

Gỗ mềm: Njiring (Dalbergia lanceolaria) làm nĩa, cán dao. Kồng keong (Aganosma marginata), dong lii (Acacia), tuk lur (Horsfieldia), nho là (Pinus khasya), liang ka (Turpinia montana), nsap bôrlah (Exodia triphylla), borling sar (Alstonia scholaris).

Gỗ chất lượng thấp: Srop làm cầu, blo bônôm (Dillenia), phar pii (Diospyros) cho công viên trâu, rodap làm hộp trống, tiir (Areca) làm ống. Các loại khác: thanh (Bapanea), yoe (Pterocarpus), bbang à (Anacolosa), mbu (Eugenia), cha lò (Castanopsis), pông go (Quercus helferiana), ponar lbwe (Cinnamomum), bbang lir (Cratoxylon polyanthum), bru (Ternstroemiaceae), lúa mì (Pterospermum), Meliaceae, Sapindaceae, Irvingia, Altingia gracilipes, Millettia, Olea dioica, jồng chah (Rubiaceae), bortis (Sandoricum indicum), hoa hồng bò (Vaccinium wide), bbu oum (Lonicera), sinh, jeep, nke young, all, rii, rbpu hao, liait. Gỗ rôpà (Lagerstroemia) hiếm ở xứ Sré.

Tre xây dựng

Vách ngăn: sơkar (Arundinaria), kring hoặc prowl (Gigantochloa), proh.

Mái nhà: Gle bang (Oxytenanthera), kring, gle ngan (Oxytenanthera dinhensis), njut (Arundinaria falcata).

Sàn nhà: đơr hoặc sơkar. Người R’Glai dùng rôyau (Amomum krervanh).

Hàng rào: Gle ngan, njut, gle bang.

Tre cho việc nhỏ

Nhạc cụ: Gle, đơr, gle bang.

Ống: kơrla. (Bambusa blumeana), sơkar, tôyong (Bambusa sp.), lòa.

Cần câu: Njut, gle bang.

Mũi tên: sơkar.

Tạo lửa: Gle, tôyong, đơr.

Tre nrung (Bambusa sp.) không được ưa chuộng.

Củi

Tốt: Cha, mhi, côrau (Pasania), ntor iar, gus, pông go (Fagaceae), mhi bò (Photinia), Ñhàl (Elaeocarpus), kôriang (Eugenia), krapur (Engelhardtia).

Trung bình: Đồng hồ, mặt đất, chim gõ kiến (Mangifera, Aporosa, Sideroxylon, Ilex).

Bình thường: Không ai (Pieris, Memecylon, Dillenia, Eurya, Graunllea, Glochidion annamense, Macaranga denticulata, Phyllanthus elegans, Baccaurea, Rhodomyrtus, Decaspermum, việt quất, già).

Tránh khói: Khói, gỗ (Grewia, diệp hạ châu, Ficus, Litsea, Antidesma, Mussaenda).

Cấm đốt: Bbang à, bbang cal (Buchanania), kôdak (Mallotus), sôndui rac (Glochidion), lout.

Than củi: Piap (Wendlandia), jôrang chah (Rubiaceae), rôÑat (Tristania), klồng.

Chiếu sáng: Đuốc từ nhựa nho sàr (Pinus merkusii), nhựa kôlcang.

Lợp nhà: Ja (Imperata), rôsui (Calamus hoặc Daemonorops), sra (Corypha), rôbut (Calamus hoặc Daemonorops). Phụ kiện: Nggal (Livistona), sôko (Pandanus).

Dây leo, vỏ cây, sợi

May vá: Rônjung (Mucuna), jôgmai hoặc sômai (Boehmeria nivea), prui sômai (Maoutia puya), nar (Urticaceae).

Đánh cá: Bonra’ (Tylophora ovata), touÑa (Mucuna pruriens), iam pôdang (Aganonerion).

Dây nỏ: Klot (Gnetum latifolium).

Công việc khác: Drôpo (Raphidophora), ding boh (Thunbergia grandiflora), piang bih (Agyreia mekongensis), pung ping (Tinospora), klìt (Melodinus), lớp học (Scandens), gan rùa (Leguminosae), xanh (Mallotus cochinchinensis). Trung bình: iam bong (Apocynaceae), ka’ (Entada), ntroÑ jùn (Rhynchodia capusii), kôdà los (Leguminosae), plai sah (Tetrastigma). Ít bền: Derris, Pueraria phaoloides, Panicum, gla mat tongai, dam brai, boÑar, plus, rôhồng, pôjil, prôyoal, sorling, tanong, tùng dou, tip ka.

Dây leo nhẹ: bơlìl (Cocculus thunbergii), bơlìl kuh (Dunbaria), côdà (Tricosanthes), ee oh (Paederia tomentosa).

Mây: Rôyah, jenau, rôsui, buh, plah, roastang, rôsiang, rôyah dou (Flagellaria indica), phun, gai dan.

Tre làm dây: Gle, njut, sơkar, tôyong.

Dệt: Bông (Gossypium, ddis) dệt khăn, áo, khố. Vỏ yar (Careya) dệt chăn thô.

Giỏ: Chiếu và bao gạo: sùt hoặc cengdrun (Cladium). Túi, tạp dề: sôko (Pandanus). Mũ: tôyong. Giỏ: đơr, gle, tôyong, sơkar, gle bang, proh.

Thuốc nhuộm: Ddoac hoặc rônhung (Ruellia) nhuộm đỏ chiếu, trum (Cyclacanthus coccineus) nhuộm đỏ son, sôdir (Indigofera tinctoria) nhuộm xanh bông, tii (Careya sphaerica) nhuộm đen.

Khác: Đánh bóng: ding dol (Tetracera), por àp (Oxalis corniculata). Chổi: pornos (Thysanolaena maxima). Nhạc cụ: nhoung (Lagenaria vulgaris). Xức tóc: jôntii (Acacia continua), sraÑ (Ricinus communis). Làm đen răng: krae hoặc pôrÑoe (Memecylon edule), ddis dor (Bridelia). Dây chuyền: plai Ñong ku’ (Coix lachryma-jobi). Đệm: gồng (Bombax malabaricum). Bật lửa: podin (Caryota). Lót sàn: miim (Tâm thần). Hàng rào sống: rôdàp (Erythrina indica), rôdàp lò (Erythrina), rôdop (Schefflera elliptica).

IV. Sử dụng tôn giáo (30 cây)

Nơi cư trú của Thần linh: Pơdang (Melastoma villosum) là nơi ở Thần linh đất đai, khởi nguồn nghi lễ nông nghiệp. trŭ (Altingia gracilipes) biểu hiện Tinh thần trong chu kỳ nông nghiệp, do Thần Ndu tạo ra. Chậu phổi (Oroxylum indicum) là nơi ở Thần linh, từng bị cấm chặt. Mhi (Quercus setulosa) là nơi ở cũ của Ndu, biểu hiện vai trò bảo vệ. jri hoặc jri wer (Ficus sp.) là cây đa linh thiêng, nơi ở Thần linh sinh sản.

Nghi thức nông nghiệp: Hao trŭ (tháng 5) báo hiệu cày cấy, quả chậu phổi (tháng 7) báo hiệu gieo hạt. Bảo vệ cây trồng bằng chín cây bó hoa lễ klàng kôltôk: tii, blo, trum, klot, bbang cal, nha koe, nho là, chir, krae. Bảo vệ trâu bằng bốn cây ngâm chân: mhi, gte, nha moung (Panicum hoặc Echinochloa), kong ran (Sida rhombifolia).

Nghi lễ gia đình: jri, kong ran, tang lang (Cissus sp.) trộn với đất mối và bia gạo làm nước ngâm lễ Lirbong. Bảy lá nha moung và kong ran làm cọ rảy nước thánh. Cành podang bảo vệ khỏi ma quỷ, cành sômpiu xua đuổi tà ma.

Lễ cúng: kơlhô (Dysoxylon) cháy như hương trầm, trŭ bơjou (Altingia) làm vui lòng thần. Củ rômit (Curcuma) gieo để thu hút Thần linh. Lá klồng (Dipterocarpus) gói xôi lễ vật. Bàn tay chuối là lễ vật dâng Thần.

Phép thuật: kơrjot (Liliaceae) đánh vào chân giúp trẻ đi lại, vào tay khiến tàn bạo.

Cấm tôn giáo: Cấm chặt hoặc đốt jri mer (Ficus), lò cà tong (Gmelina hystrix), kôrmui (Derris), sondai rac (Glochidion).

Linh tinh: Cây bông gạo (blàng, Eriodendron anfractuosum) và rôdàp lò (Jatropha curcas) làm cột tế. Hạt klac (Entada scandens) làm bùa hộ mệnh.

V. Trang trí, trò chơi, âm nhạc, và văn học

Trang trí: Lá sôntur (Pteridium aquilinum) truyền cảm hứng mô típ cách điệu. Mặt dây chuyền bằng vàng (Platycerium grande) tạo họa tiết ren. Lá hơn (cọ) và sbko (Pandanus) tạo hoa văn hình học và “răng cưa”. Lá blàng (Eriodendron) và bó rơm ja (Imperata) tạo mô típ “bó paillotte”. Hạt nhoung (Lagenaria) tạo kiểu “hạt bầu”.

Trò chơi: Plai Ñong (Dischidia nummularia) làm vòng cổ, bùm ntồp (Centrosema) làm mồi bẫy chim, ding barter (Nepenthes thorelii) và pôga (Pericampylus) làm bong bóng xà phòng, bơlìl tring (Cocculus) cho trò chơi trẻ em, hoa pôrang (Ixora) để trang trí.

Văn học: Huyền thoại kể về chuối rừng (ju), mây (rôyah), xoài (pồ). Thần linh như Prìt-Pha từ chuối, Dong và Rang từ trŭ. Các cây như xoài, cam (kroac), đu đủ (blôhong), dưa chuột (rôpung) là nơi ở Thần linh. Cây tii (Careya), pôdang, pot lung (Oroxylum), mbu (Eugenia) thường xuất hiện trong văn học. Jai (Eleusine) liên quan đến Thần Boung, boung krong (Dendrobium) giúp chó săn. Cây jri (Ficus), đơr (Oxytenanthera), tang lang (Cissus) hình thành cơ thể người.

Âm nhạc: Nhoung làm hộp âm thanh, kơrla, sơkar, tôyong làm ống dẫn âm, sợi kơrla làm dây rung.

Bảng chú giải tên thông dụng và địa danh

Bảng liệt kê các thuật ngữ địa lý và thực vật trong ngôn ngữ K’Ho và R’Glai, bao gồm tên gọi núi (bồm, đồng’), sông (luôn luôn, đâm), làng (bbon, cực), đất (ugh, lan), đá (TRONG, cái nồi), cây (chi, kogou), dây leo (che, tấm kim loại), rừng (bri, glai), và các bộ phận cây như gốc (trang điểm, akà), lá (tôi ở đây, phun), quả (Xin vui lòng, ồ). Các thuật ngữ như sơnơm (K’Ho), jirao (R’Glai) chỉ cây thuốc.

Lù ý về địa danh

Địa danh ở xứ Sré gắn liền với cảnh quan, thực vật, và địa hình, như ja (Imperata), klồng (Dipterocarpus), sôko (Pandanus), gle (Oxytenanthera). Núi thường mang tên Yàng (Thần), ví dụ Brah-Yàng. Làng thường mang tên sông hoặc cây, như Njiring, Rơhang-ropual, Klong-frao. Tên địa danh thay đổi theo phương ngữ, ví dụ dà (nước) thành yà, dak, eak. Cách viết tiếng Việt hoặc Pháp gây nhầm lẫn, như Djiring (Njiring), Di-linh (Cagne), Da Nhim (Dà-Ñing). Việc giữ nguyên tên bản địa hoặc dịch rõ ràng sẽ giúp bản đồ dễ hiểu hơn.

Lù ý về cây thuốc

Từ sơnơm (K’Ho), jirao (R’Glai), súng (Mnông), thuốc (tiếng Việt) mang ý nghĩa y học-tôn giáo, liên quan đến chữa bệnh và đền bù. Theo truyền thuyết Sré, Thỏ phát hiện cây thuốc đầu tiên, sau bị con người chiếm giữ. Cây thuốc, đặc biệt họ Zingiberaceae, được bô lão và thầy bói sử dụng trong nghi lễ trị liệu. Sử dụng sơnơm vừa chữa bệnh vừa sửa chữa rối loạn tâm linh, kèm theo cấm kỵ về ăn uống, thăm viếng. Phương pháp sử dụng đa dạng: bôi, uống, xông hơi. sơnơm có thể chữa bệnh hoặc gây bệnh nếu dùng sai, được điều trị bằng chính sơnơm đó (vi lượng đồng căn). Ngoài cây, sơnơm còn chỉ thuốc khoáng, động vật, hoặc chất thơm ma thuật. Người Sré tin vào sơnơm truyền thống nhưng cũng nhạy cảm với thuốc châu Âu.

Thư viện

– Condominas G. và Haudricourt A. — Tiểu luận thực vật học dân tộc Mnong-Gar. BIBA, tháng 1-tháng 2, 1952.

– Dournes J. — Thế giới thực vật của người Thượng có sinh động không? J.ATBA, tháng 5-tháng 6, 1954, tập 1, số 5-6.

Về Ban biên tập

Hãy kiểm tra thêm

Ý nghĩa của núi trong văn hóa và tín ngưỡng: Từ Kinh Thánh, văn hóa Kòn Cau đến các tộc người trên thế giới

Núi, từ lâu, đã vượt ra khỏi ý nghĩa địa lý đơn thuần để trở …

Hiểu về văn hóa cổ truyền như thế nào ?

Văn hóa cổ truyền là biểu hiện sống động của bản sắc con người, được …

Vũ trụ quan và sự sống đời sau

“Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy, người …