Cahiers d’outre-mer
Kỹ thuật canh tác nương rẫy của Kòn Cau xưa ở cao nguyên, theo Georges Condominas
Louis Papy
Trích dẫn tài liệu / Cite this document:
Papy Louis. Kỹ thuật canh tác nương rẫy của Kòn Cau xưa ở cao nguyên, theo Georges Condominas. Trong: Cahiers d’outre-mer. Số 41 – Năm thứ 11, Tháng 1-Tháng 3, 1958. Trang 79-83;
doi: https://doi.org/10.3406/caoum.1958.2063
https://www.persee.fr/doc/caoum_0373-5834_1958_num_11_41_2063
Tệp PDF được tạo ngày 22/04/2018
GHI CHÚ VÀ BÁO CÁO
Kỹ thuật canh tác nương rẫy của Kòn Cau xưa ở cao nguyên
Theo Georges Condominas
Giữa bức tường dốc đứng của dãy Trường Sơn nhìn xuống những đồng bằng hẹp, nơi người Việt miệt mài trồng lúa nước, và thung lũng sông Mekong, trải rộng một vùng đất bao la gồm núi non, cao nguyên, rừng rậm và rừng nhiệt đới. Ở đó, sống rải rác và biệt lập là những tộc người thường được biết đến với tên gọi Moïs – “những người man rợ” – một cái tên mà người Việt đặt cho họ, mang chút sắc thái khinh miệt. Trong số đó, có người Mnong Gar, những “người của rừng”. Họ sống ở một vùng trũng đầm lầy nhỏ – ở độ cao 500 mét – và những ngọn đồi bao quanh; khu vực này được dòng sông Krong Knô, một nhánh phụ của Mekong, dẫn lưu. Giữa những cánh rừng rậm rạp và lùm tre, những khoảng đất canh tác và đồng cỏ cỏ tranh mọc trên những cánh đồng cũ chỉ mở ra những khoảng trống hẹp. Các làng mạc, nối với nhau bằng những con đường mòn trong rừng, là những cụm nhà nhỏ: những ngôi nhà dài với mái tranh lớn, dốc hai bên, thấp đến mức che khuất các bức tường đan bằng tre. Trước hoặc giữa các ngôi nhà mọc lên vài cây tre lớn, những cây bông gạo giả với thân đầy gai, và cây xoài. Trong những sân lầy lội, có chuồng trâu và chuồng lợn. Khu vực xung quanh các làng được dọn sạch vì sợ hổ.
Chính xã hội và cuộc sống của một trong những ngôi làng ở vùng đất Mnong Gar, Sar Luk, được ông Georges Condominas mô tả trong một cuốn sách mới xuất bản có tựa đề: “Nous avons mangé la forêt” (Chúng tôi rừng).1 Tác giả, một nhà tộc người học, đã sống hơn một năm tại Sar Luk, nơi có 146 cư dân. Ông đã hòa mình vào cuộc sống của người Mnong Gar, tham gia các lễ hội, đời sống gia đình, và công việc hàng ngày của họ; thông thạo ngôn ngữ địa phương, ông đã tiến hành một cuộc khảo sát đặc biệt kỹ lưỡng. Cả cuốn biên niên sử của ngôi làng hiện ra trước mắt chúng ta. Chúng ta thấy cuộc sống hàng ngày của những con người mà mối quan hệ huyết thống được chỉ ra chính xác, tính cách được phân tích tinh tế và cẩn trọng. Đến cuối cuốn sách, một số nhân vật – như Kroong-le-Bref, người kể chuyện không ngừng với gương mặt sắc sảo như chim săn mồi – trở nên thân thuộc như những nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết hay. Nhưng đây là một câu chuyện có thật, đầy hấp dẫn. Chúng ta chứng kiến lễ ký kết một liên minh giữa hai người có địa vị, được củng cố bằng lễ hiến tế hai con trâu, các nghi thức tang lễ, và một lễ hội lớn của Thần Đất với việc hiến tế mười một con trâu.
Ở hậu cảnh, chu kỳ công việc nông nghiệp được triển khai. Những trang này thu hút chúng ta, vì chúng cung cấp một ví dụ nổi bật, được phân tích hoàn hảo, về một nền nông nghiệp du canh trên nương rẫy.
Người Mnong Gar thực hành ray mà họ gọi là mìr trong tiếng địa phương. Hàng năm, họ phát quang một phần rừng mới; đất canh tác được sử dụng lại sau mười đến hai mươi năm bỏ hoang: như vậy, trong khung cảnh của cánh rừng lớn, các cánh đồng thay đổi vị trí mỗi năm. Đôi khi, khi các cánh đồng canh tác ở xa, chính ngôi làng cũng bị bỏ hoang và được xây dựng lại ở nơi khác.
Đầu tháng Mười Hai. Chỉ còn vài ngày gió và mưa: mùa mưa sắp kết thúc. Một năm mới bắt đầu: đã đến lúc bắt tay vào khai phá một góc lãnh thổ nơi rừng, sau hai mươi năm, đã mọc lại. Tất cả các trưởng hộ muốn có đất để canh tác tập trung tại làng: “người thiêng” – người chịu trách nhiệm thực hiện việc “khảo sát rừng” – vẽ trên mặt đất bằng các que gỗ sơ đồ của phần rừng nằm ở rìa các cánh đồng đã canh tác những năm trước, và được quyết định sẽ chặt phá: như vậy, việc phân chia lô đất được thiết lập. Mọi người đều đồng ý. Sau đó, cả đoàn dân làng lên đường đến khu rừng cần khai phá; mỗi người mang theo một con dao rựa và trong một chiếc giỏ nhỏ là một cái cuốc, một củ khoai, và những loại cỏ dùng trong nghi lễ.
“Vào ngày đẹp trời đầu tiên sau một tuần gió và mưa phùn, không khí chưa khô khốc, cây cối rực rỡ với mọi sắc xanh, bầu trời quang đãng dường như sâu thẳm và cao hơn” (tr. 373). Khu vực được chọn có những cây lớn hai mươi năm tuổi và hứa hẹn sẽ cho một vùng đất màu mỡ. Ở giữa lô đất được phân, mỗi trưởng hộ chặt một cây ở lưng chừng; dưới gốc cây, họ chôn một củ khoai và phủ cành lá lên trên: nếu củ khoai lớn lên, đó là dấu hiệu vụ mùa sẽ tốt; họ chôn gần đó những mảnh sành và vỏ sò để xua đuổi tà ma cũng như hươu nai và lợn rừng, những loài có thể gây hại cho vụ mùa tương lai; họ cắm vào một khe trên gốc cây một bó cỏ nghi lễ; bằng cách chặt vài bụi cây, họ đánh dấu ranh giới của cánh đồng tương lai (tr. 372-374).
Trong những tuần tiếp theo các nghi lễ chiếm đất, mỗi gia đình chặt tất cả cây cối trên lô đất của mình; các cành cây rối rắm khô lại tại chỗ. Đã đến lúc đốt rẫy: các trưởng hộ tập hợp tại một khoảng trống, xung quanh những “người thiêng của lửa rừng” – những nhân vật khác với những người phân chia lô đất – có khả năng cầu xin sự bảo vệ của các linh hồn. Họ mang theo những “cây gỗ sắt” thiêng, bùi nhùi, sợi tre xơ, lá cây, và những hộp đan bằng tre chứa đầy hạt. Họ cầu hỏi các linh hồn. Họ uống bia gạo. Khi tất cả các nghi lễ sơ bộ cần thiết cho sự thành công của việc đốt rẫy được hoàn tất, họ tiến hành đốt lửa: trong một khe của gỗ lửa, được nhét một miếng bùi nhùi, một dải tre hẹp được luồn vào; một người kéo dải tre qua lại, như thể đang cưa, ngày càng nhanh, để ma sát với gỗ tạo ra tia lửa; một người khác thay thế khi người đầu tiên mệt. Những lời cầu khấn các linh hồn, kèm theo tiếng trống và kèn, cùng với việc uống bia gạo, hỗ trợ họ trong công việc mệt nhọc này. Một tiếng reo vang lên: lửa đã bén vào bùi nhùi; họ mang bùi nhùi đến một đống gỗ lửa, và nó bùng cháy (tr. 203-206). Sau đó, mỗi người ăn một ít thức ăn nghi lễ, gồm cơm nấu chín và cá. Trong khi một con gà được hiến tế, mỗi trưởng hộ ném vào lửa một bó lá và cỏ mà họ mang theo.
Những thanh niên lấy từ đống lửa những cành củi đang cháy và chạy đến đốt ở nhiều điểm khác nhau trên khu vực đã phát quang. Các cành cây cháy lách tách, khói bốc lên. Chẳng mấy chốc, tất cả trở thành một tiếng ồn chói tai. Bốn mươi hecta rừng giờ chỉ còn là một đám cháy khổng lồ bùng lên dữ dội, các cột khói hợp lại và khối khói khổng lồ từ từ bay lên trời (tr. 209-210); những chiếc lá cháy dở bị gió cuốn đi xa. Chẳng bao lâu, ngọn lửa dịu đi: trên mặt đất phủ một lớp tro dày, nơi một số cây vẫn còn cháy và bốc khói, chỉ còn lại một đống thân cây và cành cháy đen. Ngay lập tức, trên lô đất của mỗi trưởng hộ, phụ nữ bắt đầu gieo trồng nghi lễ những loại rau củ đầu tiên; họ sử dụng cuốc, trồng hom sắn, và gieo hạt ngô vào các hố.
Giờ là mùa khô, kéo dài từ tháng Một đến tháng Sáu. Công việc đồng áng, dù vất vả, vẫn để lại nhiều ngày rảnh rỗi. Đây là thời điểm diễn ra các cuộc đánh cá tập thể, công việc thủ công phát triển mạnh, và những chuyến đi buôn nhỏ. Một vài ngày được dành để bắt cá. Đây là mùa nước thấp. Trên các ghềnh sông, một con đập được dựng lên để chặn một phần dòng chảy: một hàng cọc tre, cỏ, lá, và đất được dựng dựa trên những thân cây đặt ngang dòng nước; dòng nước chảy xiết qua khoảng trống còn lại; trước con đập, rễ của một loại cây độc được ném vào, chất độc lan trong nước và làm cá ngạt thở; chúng nổi lên mặt nước. Đàn ông, phụ nữ, trẻ em, với những tiếng reo vui, dùng rổ xúc đáy sông, dùng lưới vét, ném lưới ở những nơi sâu nhất, và bắt cá bằng tay (tr. 201-203). Có một loại hình đánh cá tập thể khác, đơn giản hơn, gồm việc đặt bẫy trong lòng các con suối lớn (tr. 213-214).
Giữa các công việc phát quang và đánh cá tập thể, người dân Sar Luk làm các công việc thủ công. Đàn ông rèn lại lưỡi dao rựa ngắn và rộng, thay thế các cán tre cong mà lưỡi dao được gắn vào, sửa chữa cuốc. Trong làng có những thợ rèn lành nghề, dùng các thanh sắt nhập khẩu để làm dao rựa, cuốc, và kiếm theo yêu cầu của dân làng. Đàn ông biết dùng tre và mây để làm rổ và giỏ; phụ nữ là những thợ dệt bông tài giỏi, biết nhuộm quần áo bằng các loại cây hái trong rừng. Những tấm chăn dệt được dùng để đổi lấy trâu từ người Việt trồng lúa ở đồng bằng ven biển, cần thiết cho các lễ hiến tế lớn. Việc buôn bán nhỏ này diễn ra vào mùa khô: người dân Sar Luk đến Đà Lạt và Buôn Ma Thuột để mua muối, vải nhập khẩu, và bình gốm mới từ các thương nhân Trung Quốc (tr. 21-22).
Tháng Năm. Mùa khô kết thúc, cũng là thời điểm các dịch bệnh lớn xuất hiện. Có những ngôi làng mà dịch bệnh nghiêm trọng đến mức dân chúng quyết định rời bỏ nhà cửa để “sống trong rừng”. Họ đã bắt đầu nghĩ đến việc gieo hạt. Trên khu đất đã phát quang, nơi đất đã được chuẩn bị, mỗi trưởng hộ, với các động tác nghi lễ kèm theo những lời cầu nguyện dài, trồng trên lô đất của mình những loại cây thiêng (tr. 221-223). Việc gieo hạt có thể bắt đầu: việc này được thực hiện chung trên toàn bộ khu vực phát quang; đàn ông, cầm gậy gieo hạt, xếp thành hàng, tiến lên phía trước, đào các lỗ trên đất, và phụ nữ đi theo sau thả hai hoặc ba hạt vào mỗi lỗ. Những cơn mưa đầu tiên đã đến. Trong suốt mùa mưa, từ giữa tháng Năm đến giữa tháng Chín, việc làm cỏ được thực hiện chung: đây là hoạt động nông nghiệp vui vẻ nhất; “cỏ dại không mọc quá nhanh đến mức phải vội vã, không có điều cấm kỵ nào ngăn cản việc hát và vui chơi trên đồng, các đội thanh niên nam nữ làm việc tự do hơn, tham gia vào những cuộc thi hát cá nhân” (tr. 237). Tuy nhiên, thời gian này không phải không có lo lắng; để bảo vệ cánh đồng khỏi thú rừng, họ phải dựng hàng rào quanh khu vực phát quang, xây lều canh ở trung tâm… Đặc biệt, nếu vụ mùa năm trước không năng suất, họ phải vay lúa từ các làng lân cận để đảm bảo đủ lương thực và có thực phẩm tốt hơn rau rừng và măng tre. Sau khi làm cỏ “cỏ cứng” – được đánh dấu bằng một lễ hội – là làm cỏ “cỏ mềm”… Họ đã thu hoạch ngô, một nguồn thực phẩm quan trọng hàng ngày; lúa chín. Lúc này, sự xâm nhập của lợn rừng, hươu, nai, gấu, và các loài chim phá hoại là điều đáng lo ngại nhất: những người canh gác luôn túc trực để báo động.
Cuối tháng Mười, thời điểm thu hoạch đến cùng với sự kết thúc của mùa mưa. Trong lễ Cột Đất nhằm giữ hồn lúa ở lại cánh đồng, một con trâu đã được hiến tế. Mỗi trưởng hộ giờ đây đến giữa lô đất của mình để thực hiện các nghi lễ trước khi thu hoạch; họ cắt cổ một con gà và đổ máu lên những bông lúa chín và các cây thiêng, trong khi đọc một bài cầu nguyện dài (tr. 289-290). Giờ đây, phụ nữ bắt đầu công việc: họ đi chậm rãi, nắm ngược mỗi bông lúa để tuốt hạt và đặt chúng, bằng tay kia, vào một chiếc giỏ nhỏ đeo trước bụng; hạt sau đó được đổ vào những giỏ lớn đặt trên mặt đất. Công việc của đàn ông là vác những giỏ này trên lưng và mang chúng đến đổ vào kho tạm thời đặt ở rìa cánh đồng, trên con đường dẫn về làng. Mùa thu hoạch là thời điểm làm việc căng thẳng: “Cho đến khi hoàn tất việc thu hoạch, việc đi xa và uống rượu bị cấm… Khoảng thời gian duy nhất được phép ngưng thu hoạch lúa là để trồng bông, vì bông cũng không thể đợi. Chỉ có cái chết của một thành viên trong cộng đồng mới khiến dân chúng tạm dừng công việc đồng áng và được phép mở các bình rượu” (tr. 291-292). Những người đã thu hoạch xong lô đất của mình sẽ đến giúp những người khác. Đầu tháng Mười Hai: họ phải mang hạt từ các kho tạm thời về các kho trong làng. Trong nhiều tuần, đó là một chuỗi di chuyển không ngừng: họ làm việc theo đội; tại làng, chủ mỗi ngôi nhà tiếp nhận các giỏ và đổ chúng vào kho của mình. Chu kỳ hàng năm đã hoàn tất. “Người dân Sar Luk tổ chức một lễ hội lớn để tôn vinh Thần Đất. ‘Cánh rừng của Đá-Thần Gôo đã cho tất cả những gì sức lao động của con người có thể lấy được, và họ bỏ lại nó. Nó sẽ sống mãi trong ký ức của họ như một mốc thời gian để đánh dấu các sự kiện xảy ra trong năm mà nó bị ‘ăn’. Cho đến một ngày, sau nhiều năm, khi tất cả các cánh rừng trong lãnh thổ của Sar Luk và Phì Ko đã được khai phá, họ sẽ trở lại để lại chặt phá nó, thu hoạch hạt mà đất của nó sẽ mang lại…’” (tr. 376).
Một năm mới bắt đầu. “Chúng ta rừng”. Cộng đồng làng sẽ bắt đầu, để sinh tồn, tấn công vào một cánh rừng mới, chinh phục nó trước các loài thú và những linh hồn xấu.
Louis Papy
1x. Georges Condominas. Nous avons mangé la forêt. Chronique d’un village mnong gar, hauts plateaux du Vietnam. Paris, Mercure de France, 1947, 498 trang.