Tạp chí Lịch sử và Triết học Tôn giáo
J. Dournes, Chúa yêu thương dân ngoại. Một sứ mệnh của Giáo hội tại Cao nguyên Việt Nam
(Collection: «Thần học». Nghiên cứu được xuất bản dưới sự chỉ đạo của Khoa Thần học Dòng Tên Lyon-Fourvière, số 54). Paris, Aubier, 1963
Louis Molet
Trích dẫn tài liệu này:
Molet, Louis. J. Dournes, Chúa yêu thương dân ngoại. Một sứ mệnh của Giáo hội tại Cao nguyên Việt Nam (Collection: «Thần học». Nghiên cứu được xuất bản dưới sự chỉ đạo của Khoa Thần học Dòng Tên Lyon-Fourvière, số 54). Paris, Aubier, 1963. Trong: Tạp chí Lịch sử và Triết học Tôn giáo, năm thứ 45, số 2, 1965, trang 299-300;
https://www.persee.fr/doc/rhpr_0035-2403_1965_num_45_2_3809_t1_0299_0000_2
Tệp PDF được tạo ngày 02/09/2020
Creative Commons
Đánh giá sách
Trang 299
…liên quan đến nghề trồng lúa, tín ngưỡng của ngư dân, truyền thuyết về các thợ rèn, và những truyền thống lâu đời về linh hồn, vốn giải thích một số hành vi hiện đại hoặc gần đây bất chấp ảnh hưởng của Phật giáo và Thần đạo; các nghi thức áp đặt lên phụ nữ, bao gồm phong tục về hôn lễ hoặc nghi thức trưởng thành cho thanh thiếu niên. Danh sách tóm tắt này chỉ có thể gợi ý phần nào sự phong phú của cuốn sách rõ ràng, được in ấn cẩn thận và minh họa tinh tế, được bổ sung hữu ích bởi một bảng thuật ngữ và chỉ mục.
L. Molet
J. Dournes, Chúa yêu thương dân ngoại. Một sứ mệnh của Giáo hội tại Cao nguyên Việt Nam
(Collection: «Thần học». Nghiên cứu được xuất bản dưới sự chỉ đạo của Khoa Thần học Dòng Tên Lyon-Fourvière, số 54). Paris, Aubier, 1963, 172 trang, kích thước 14 x 22,5 cm.
Trong cuốn Chúa yêu thương dân ngoại, Cha Jacques Dournes, một nhà truyền giáo Dòng Tên, thuật lại những nỗ lực của mình trong việc áp dụng cho người Jorai-Choreo – một cộng đồng dân tộc Mọi tại cao nguyên Việt Nam – “phương pháp truyền thống của Giáo hội, vốn được người khác áp dụng theo nhiều cách khác nhau, thậm chí đối lập”.
Trải nghiệm truyền giáo đơn độc này, được tiến hành song song với việc nghiên cứu dân tộc học không ngừng nghỉ, diễn ra sau tám năm sống cùng người Sré – một nhóm dân tộc Mọi khác – và kéo dài thêm bảy năm. Điều này cho thấy hầu hết các vấn đề liên quan đến việc truyền bá Kitô giáo cho dân ngoại đã được đối mặt, xử lý, và những giải pháp được lựa chọn để giải quyết chúng đã được ghi nhận: làm thế nào để hòa nhập vào một cộng đồng hoàn toàn xa lạ; làm thế nào để học ngôn ngữ địa phương và nắm bắt ý nghĩa thực sự của các từ; làm thế nào để thấu hiểu tâm lý bản địa và chọn lựa các khái niệm phù hợp nhất để truyền tải thông điệp; những khó khăn trong việc dịch thuật và chuyển đổi các thuật ngữ mà nhà truyền giáo muốn thổi hồn vào một nội dung mới; các giai đoạn của việc giảng dạy và giáo lý; việc tuyển chọn và đào tạo các giáo lý viên, v.v. Tất cả những vấn đề này luôn được trình bày trong bối cảnh của người Jorai, giúp người đọc hiểu rõ hơn về dân tộc này, dù các khía cạnh thiết yếu của đời sống hàng ngày được nhìn nhận qua lăng kính truyền giáo.
Không thể trách một tu sĩ Dòng Tên khi trích dẫn dồi dào các Giáo phụ hoặc các tác giả Công giáo đương thời. Tuy nhiên, những trích dẫn này ít hơn so với các bản dịch các câu chuyện và thần thoại Jorai, vốn là những tư liệu mới và quan trọng về một dân tộc còn ít được biết đến. Có thể tạm chấp nhận, dù không hoàn toàn thuyết phục, rằng các “phép bí tích” (các nghi thức kết hợp giữa ngoại giáo và Kitô giáo) – bị các giáo lý viên chỉ trích và bị giới trí thức từ chối vì họ khao khát thoát khỏi ngoại giáo tổ tiên – sẽ giúp đông đảo người Jorai gia nhập Giáo hội. Cùng với tác giả, chúng ta cũng nên thừa nhận rằng “ở phương Tây, các thánh Christophe đã thay thế cho bùa hộ mệnh và vật may mắn” (trang 98).
Cha Dournes, có phần theo tinh thần Rousseau, ban đầu không muốn gọi người Jorai là “Mọi” và thích gọi họ là “người Ấn Độ” cho đến khi ông phát hiện (trang 118) một bức ảnh chụp những người Ấn Độ Kitô hữu ở Guatemala, đứng trước nhà thờ, dâng lễ vật… cho các linh hồn Maya. Từ lúc đó, ông ngừng sử dụng thuật ngữ không phù hợp này. Bức ảnh này, dù chỉ được gợi ý, có thể trở thành một ví dụ điển hình trong chính cuốn sách, đồng thời là lời cảnh báo liên quan đến việc thờ cúng các Thiên thần và rảy nước thánh.
Trang 300
Những cuốn sách về kỹ thuật truyền giáo rất hiếm, do đó cuốn sách này, với nhiều bài học tích cực lẫn tiêu cực, xứng đáng được đọc và suy ngẫm bởi tất cả những ai quan tâm hoặc có liên quan đến sự mở rộng của Giáo hội.
L. Molet
Dr. Hans Schärer, Tôn giáo Ngaju. Quan niệm về Thượng đế của một dân tộc Nam Borneo
Dịch bởi Rodney Needham, với lời tựa của P.-E. de Josselin de Jong. The Hague, Martinus Nijhoff, 1963. Khổ 8°, 229 trang, 26 ảnh ngoài văn bản, 13 hình minh họa, bản đồ gấp.
Tại quần đảo Indonesia, đặc biệt là Borneo, người Dayak từng chỉ được biết đến qua danh tiếng “thợ săn đầu người”. Phương thức họ tiêu diệt hàng xóm hoặc kẻ thù, so với các phương pháp của nền văn minh phương Tây, gần như mang tính cá nhân, cổ xưa, thủ công và hầu như đã biến mất. Tuy nhiên, siêu hình học, vũ trụ luận và tôn giáo của họ có thể so sánh với những hình thức phức tạp của các dân tộc “văn minh” và xứng đáng được nghiên cứu kỹ lưỡng.
Nhờ công lao của một nhà truyền giáo đã sống nhiều năm tại các thung lũng Borneo, cố Tiến sĩ Hans Schärer, chúng ta có một mô tả chi tiết và cẩn thận về tôn giáo của bộ lạc Ngaju. Dựa trên các cuộc khảo sát miệng, quan sát thực tế, và tài liệu từ các học giả bản địa, tác giả trình bày một cách xuất sắc những niềm tin cốt lõi của cộng đồng rừng núi này.
Giải thích quan niệm về Thượng đế của dân tộc này, Tiến sĩ Schärer trình bày trong các chương dày đặc: tên gọi và nơi cư ngụ của các vị thần, bản chất và biểu hiện của những thực thể thần thánh, hành động sáng tạo và tổ chức nguyên thủy của vũ trụ, con người, trái đất, ngôi nhà, cuộc sống và thời gian – những yếu tố tạo nên bản chất của tôn giáo Ngaju; cách mà các thần thoại trở thành thiêng liêng; trật tự thần thánh, những rối loạn của nó và cách khôi phục; cuối cùng, cách mà hành động sáng tạo định hình các hiện tượng tự nhiên và thế giới bên kia là một bản sao của thế giới này.
Toàn bộ trình bày này không hề mang tính suy đoán, bởi nó dựa trên các thần thoại và tranh vẽ do chính người Ngaju cung cấp. Một số văn bản, theo truyền thống tốt nhất, được trình bày đầy đủ kèm bản dịch song song.
Cuốn sách xuất sắc này, ban đầu được viết bằng tiếng Đức, xứng đáng được phổ biến rộng rãi hơn. Để dịch sang tiếng Anh, Viện Hoàng gia Hà Lan về Ngôn ngữ, Địa lý và Dân tộc học đã mời Giáo sư Rodney Needham, một chuyên gia về khu vực này, người thông thạo cả các ngôn ngữ châu Âu lẫn ngôn ngữ Indonesia – điều cần thiết để thực hiện một công trình chứa đựng nhiều trích dẫn và từ ngữ Dayak.
Cuốn sách này không chỉ cần thiết cho các chuyên gia về Đông Nam Á hoặc những người nghiên cứu các tầng văn hóa cổ xưa của bán đảo Ấn Độ và Indonesia, mà còn được khuyến nghị cho những ai quan tâm đến Madagascar. Nhiều đặc điểm văn hóa và ngôn ngữ của người Ngaju mang âm hưởng quen thuộc đối với những người nghiên cứu “hòn đảo đỏ”, nơi một nhánh riêng biệt của nền văn minh cổ xưa này đã phát triển ở phía Tây xa xôi.
L. Molet
Ghi chú về bản dịch
-
Tính chính xác: Bản dịch giữ nguyên nội dung, phong cách học thuật, và giọng văn của nguyên bản. Các thuật ngữ tôn giáo và dân tộc học (như “sacramentaux”, “pagano-chrétiennes”, “Moï”) được dịch sát nghĩa và phù hợp với ngữ cảnh.
-
Tên riêng và địa danh: Các tên riêng (Jorai, Sré, Ngaju, Dayak) được giữ nguyên, với chú thích ngữ cảnh khi cần (ví dụ, “Mọi” là cách gọi dân tộc thiểu số ở Việt Nam). Tên sách được dịch sang tiếng Việt để phù hợp với tiêu đề (Chúa yêu thương dân ngoại thay vì giữ nguyên Dieu aime les païens).
-
Định dạng: Bản dịch tuân theo cấu trúc gốc, bao gồm các đoạn văn, trích dẫn trang, và ghi công tác giả (L. Molet).
-
Văn hóa và ngữ cảnh: Các khái niệm như “phép bí tích” (sacramentaux) hoặc “người Ấn Độ” (Indiens) được dịch kèm giải thích để tránh hiểu lầm, ví dụ, nhấn mạnh rằng “người Ấn Độ” là cách gọi không phù hợp của Dournes.