Sưu tầm
Thuở xa xưa, vào thời đại huyền thoại khi cao nguyên Lâm Viên còn là đại ngàn cao nguyên, đất đai phì nhiêu, cỏ cây tươi tốt, khí hậu quanh năm dễ chịu như mùa thu. Trong thời đại đó, cầm thú, hoa cỏ và con người còn giao tiếp được với nhau, thấu hiểu và trò chuyện bằng tiếng người. Các bộ tộc sống riêng lẻ, thỉnh thoảng tranh chấp về đất đai, phong tục, nhưng cuộc sống vẫn thanh bình.
Vùng cao nguyên hiện tại có hai bộ tộc mạnh mẽ là Lat (Lạch) và Sre (Srê). Trong số đó, tộc Lat có một tù trưởng trẻ tuổi tên là Lang. Chàng trai này thông minh, nhân hậu và có tài chinh phục thú rừng, kể cả những loài hung dữ như voi và hổ. Khi Lang mới chỉ mười bốn, mười lăm tuổi, chàng đã sở hữu sức mạnh phi thường.
Một hôm, khi Lang đi rẫy về, chàng thấy dân làng đang khốn đốn vì hai con voi từ vùng La Ngư hạ đi lạc đến. Chúng rất hung dữ, hơn hai mươi người Lat vây đánh mà không thắng nổi. Lang tức tốc lao đến trợ sức cho dân làng, trấn áp thú dữ bằng tiếng hét uy quyền và ra hiệu cho mọi người ngừng tay. Một mình chàng đối đầu với hai con voi. Ban đầu, chúng coi thường chàng trai trẻ, nhưng sau một hồi giao đấu, chúng đã bị yếu thế. Lang bắt hai con voi quỳ xuống hàng phục. Thay vì đánh đập, chàng dùng lời ngọt ngào khuyên nhủ, cảm hóa chúng. Hai con voi cảm động, chảy nước mắt, hứa sẽ chuộc lại lỗi lầm bằng cách làm nhiều việc tốt cho các buôn làng. Lang đồng ý, và hai con voi từ biệt trở về làng cũ.
Từ đó, Lang trở nên nổi tiếng là một dũng sĩ nhân ái, được cầm thú và dân làng kính yêu. Năm tháng hiền hòa trôi qua, Lang đã hai mươi tuổi mà vẫn chưa có vợ vì chưa có thiếu nữ nào đủ tư cách để chàng làm chồng. Hơn nữa, lòng chàng đang hướng về một người bạn ở bộ tộc khác, nàng Biang xinh đẹp, con gái của tù trưởng Jiềng thuộc tộc Sre. Tên Jiềng sau này đổi thành Djrềng, rồi Di Linh như ngày nay.
Nàng Biang xinh đẹp, dịu dàng và khiêm tốn. Mỗi lần nàng vào rừng hái hoa, trái, thiên nhiên dường như trở nên thắm thiết và vui tươi hơn. Chim rừng rộn ràng ca hót, thú lành hiền hòa quây quần bên nàng, còn các loài dữ thường lẩn tránh. Nhưng có hai con rắn hổ tinh, vì hổ thẹn mà đem lòng thù oán Biang, âm mưu tìm cách hại nàng.
Một ngày nọ, được hai con cáo bày mẹo, bảy chó sói giúp sức, hai con rắn tinh quyết định tấn công Biang. Đoàn người Sre theo Biang đi hái quả đến suối Datanla, nơi các Ủr Yàng (tiên nữ) thường xuống tắm. Phong cảnh nơi đây tươi đẹp, có suối nước trong xanh. Vào mùa mưa ngâu, những chiều mù sương, người ta thường thấy loáng thoáng các Ủr Yàng bay lên trời.
Hai rắn hổ tinh chặn đánh đoàn người Sre ở suối Datanla. Bất ngờ bị tấn công, đoàn người yếu thế trước sự hợp lực của hai rắn, hai cáo và bầy sói. Khi đoàn người sắp bị hại thì dũng sĩ Lang xuất hiện. Chàng nhảy vào vòng chiến, bảy chó sói và hai rắn tinh quây quanh Lang. Cuộc giao tranh vô cùng ác liệt: gió cuồng nổi lên dữ dội, cây rừng gãy đổ ào ào. Mặt trời chệch về hướng Tây, ánh sáng chiếu lên hai cánh tay rắn chắc của Lang và hai thân lờn nhờn đen nhốc của rắn tinh.
Lợi dụng lúc rắn tinh lè lưỡi hỏi nhau, Lang rút dao mỏng như lá lan rừng, phớt nhanh hai lưỡi rắn. Chúng rú lên một tiếng kinh khủng, máu đỏ phun lênh láng trên đất, trên lá, trên những gốc cây đổ ngổn ngang. Bảy chó sói kinh hoàng vây quanh thủ lĩnh. Lang giả vờ sợ hãi, trèo nhanh lên cây. Khi đã chọn được vị trí vững chắc trên cành cây, chàng lấy cung và bắn chín mũi tên vào bầy chó và cáo. Bầy chó sói và hai rắn tinh bị trúng tên, chúng la hoảng, tru rú lên rồi bỏ chạy tán loạn. Khoảng rừng bị phá tạo thành những hố sâu đầy máu tanh nồng nặc, bọn ác thú đã thua, chỉ còn hai con cáo chạy thoát.
Lang đi tìm và gọi đoàn người cùng Biang lại. Biang e lệ cảm ơn Lang và mời chàng theo về nước Sre để tù trưởng đền công. Lúc này, hai bên có dịp tâm sự, bày tỏ nỗi lòng, nhưng rừng đã sẫm màu, đoàn Kon cau Sre phải về buôn Jrềng gấp. Lang đưa họ đi, sương mù xuống trắng xóa, trăng hạ tuần sáng vằng vặc, đoàn người mới về đến buôn Kon cau Sre.
Từ đó, dũng sĩ Lang và nàng Biang xinh đẹp, dịu hiền yêu thương nhau tha thiết, dù khác bộ tộc và ở xa nhau. Trong những đêm trăng sáng, họ thường hẹn hò nhau trên đồi núi La Ngư thượng. Tin tức về tình yêu của Biang và Lang lan truyền nhanh chóng khắp cao nguyên. Cây rừng như xanh hơn, chỉ mấy lần trăng tròn, các bộ tộc La Ngư thượng đều biết tin con gái tù trưởng Jrềng sẽ bắt chồng là tù trưởng Lat. Đám cưới sẽ được cử hành, cây cỏ, hoa lá, thú rừng đều chờ mong ngày vui ấy.
Các chú nai, sóc rộn rịp hái hoa, bẻ cành làm xe cưới; gấu, voọc vào rừng sâu kiếm mật làm quà tặng; voi, hổ thì đi chở gỗ quý về làm cầu qua các suối mà đám cưới sẽ đi qua. Thật là những ngày núi rừng tưng bừng vui vẻ. Náo nức nhất là hai con voi ở La Ngư hạ. Đã bao lần trăng tròn, hai chú vẫn chưa có dịp đến gặp dũng sĩ Lang để báo những việc thiện mà hai chú đã làm. Hai voi đã làm trăm công việc tốt như: chở cây làm cầu cho người Sre, Kơdòn, Mạ vượt suối Đạ Đờng, qua Blao, qua M’rí… Chở lá tranh cho người Nộp làm nhà dài; việc thì nhiều nhưng không biết chữ nên nhờ lão Voọc, thầy giáo trong bản, ghi công giúp. Nhưng lão thầy giáo này lại say rượu suốt ngày, dù biết chữ cũng chẳng ghi chép gì.
Cách mấy con trăng, hai chú voi có đi tải gỗ nơi giáp ranh La Ngư thượng, gặp hai lão cáo già; voi hỏi tin tức dũng sĩ Lang thì cáo đưa tin tù trưởng Lang đã bị xà vương giết chết tại Datanla. Hai voi khóc sướt mướt, vội vàng đi lễ tang. Nhưng đến nửa đường voi lại biết tin thực là dũng sĩ Lang đã giết xà tinh cứu được Biang xinh đẹp và hai người đang yêu nhau. Còn hai lão cáo già là “tham mưu” của rắn tinh. Nghe vậy, hai voi biết bị cáo lừa; hai chú quay về, ngày đêm mong đợi đám cưới. Hai chú làm việc nhiều hơn, chuẩn bị vượt ranh giới La Ngư thượng dự tiệc vui Lang và Biang xinh đẹp cưới nhau.
Nhưng đám cưới Lang và Biang không thành. Khi Biang hỏi cha, ông K’Jrềng, tù trưởng Sre, về việc nàng bắt Lang làm chồng, ông K’Jrềng kiên quyết không chấp nhận và nói rằng trước đây người Lat và người Sre có thù oán, nên con gái Sre không được bắt chồng người Lat. Giàng đã ghi trong luật tục, không ai có quyền thay đổi luật tục. Biang khóc nức nở và quyết định không bắt chồng nữa và sẽ trọn đời chung thủy với Lang.
Ngày hôm sau, Biang vượt qua không biết bao nhiêu đám rừng để đến báo cho Lang biết đám cưới của họ không thành. Hai người rất buồn rầu và quyết định đấu tranh chống lại kẻ độc ác và các tục lệ vô lý của các bộ tộc đã làm cho con người đau khổ. Sau đó, Lang và Biang ngồi yên lặng trên một đỉnh núi, mặc cho đêm xuống, trăng lên, sương tan, nắng xế. Đôi tình nhân quyết định ở bên nhau cho đến chết. Từ lúc trăng còn lưỡi liềm đến lúc trăng tròn như cái sớ, thì hai người mất. Sương mù phủ trắng cả một vùng và cao nguyên mang một bộ áo ảm đạm. Rồi mưa sụt sùi, khóc một mối tình ngàn năm. Muôn loài vùng La Ngư thượng cử tang. Đám tang kéo dài từ đồi này sang thung lũng khác, gồm các Kon cau Lat, Mạ, Sre, Nộp, Kơdòn… Và cả thú trong rừng, dưới suối, như hổ, voi, gấu, voọc, nai, rùa, ốc, sên… Trên trời, đàn chim kết cánh bay.
Tù trưởng K’Jrềng của bộ tộc Sre cũng có mặt. Ông hối hận về sự tối tăm bảo thủ của mình. Theo ước nguyện của Biang khi chết, ông họp các tù trưởng Kon cau, thống nhất lại, xóa bỏ những hiềm khích trước kia. Các bộ tộc La Ngư thượng quyết định lấy hai ngọn núi cao nhất trong vùng để mai táng đôi tình nhân và đặt tên là Lang Biang. Mỗi năm, các bộ tộc họp và đắp mộ cho hai người và thề không chia rẽ. Do đó, ngọn Lang Biang mỗi năm mỗi cao, biểu trưng cho sự thống nhất, hòa hợp của các tộc người.
Hai con voi ở La Ngư hạ đi dự đám cưới của Lang và Biang đến ngang Lèng Khàng (Liên Khương) thì hay tin Lang và Biang đã chết, đám cưới hóa thành đám tang. Hai voi đau đớn, cố gắng vượt một đoạn đường đến gần núi Ba Thao (Prenn) thì kiệt sức, khụy xuống chết hóa thành hai ngọn Núi Voi. Ngày nay, trên đường 20 Đà Lạt – TP Hồ Chí Minh, qua hết đèo Prenn đến Định An về phía tay phải, du khách sẽ thấy hai ngọn núi giống hình voi quỳ, voi hướng về Đà Lạt, về núi Lang Biang. Đó là hai chú voi đi dự đám cưới của đôi tình nhân, đi vào huyền sử của các dân tộc Nam Tây Nguyên – Lang Biang.