Địa danh Rơba

Trên quốc lộ 27, đoạn đường từ ngã ba Liang Khang (Liên Khương) đến Đắk Lắk, từng có một địa danh tên là Rơba (rơ-va). Một địa danh dường như xa lạ đối với thế hệ 2k. Có lẽ tên gọi này chỉ còn trong ký ức và được nói ra trên môi miệng của các vị cao niên. Bởi lẽ đã có sự thay đổi một cách chóng mặt tên gọi các địa danh trên cao nguyên Lâm Viên, sau những cuộc di cư của lớp cư dân mới từ nhiều miền khác nhau, đến định cư nơi miền đất đỏ bazan này.

Raba, một địa danh cổ xưa của vùng Phú Sơn ngày nay, đậm nét văn hóa của vùng núi cao nguyên. Nằm trên vị trí cao nhất của quốc lộ 27. Từ nơi cao nhất về hướng đông, người ta có thể chiêm ngưỡng núi Lang Biang huyền thoại trên xứ sở của người Làc, cùng nơm Roas (núi voi) biểu tượng của K’Iut (người khổng lồ) xưa kia. Tại đây, người ta cũng có thể nghe thấy tiếng chảy của dòng suối quanh co từ chân núi Lang Biang đến đầu nguồn sông Dà Dờng. Tiếng gió hiu hiu bên tai, cùng tiếng muông thú từ trên núi đồi, tạo nên một bản giao hưởng của thiên nhiên. Cơn gió mang theo sự lạnh lẽo của hơi nước từ con suối và sương mù của buổi sớm mai cũng sẽ ùa vào những ai đứng trên đỉnh cao đó. Đỉnh cao này cũng là nơi đầu tiên nhận được ánh bình minh của hừng đông, báo hiệu mặt trời đang mọc lên. Nhưng khi đi qua một đoạn dọc theo quốc lộ, người ta sẽ phải đi xuống một cách chậm rãi, bởi phía trước là một con dốc và dốc đi xuống một cách đột ngột. Họ sẽ phải vượt qua nhiều con đèo để đến những nơi như R’Lang, Phi Liêng, Liêng Srôñ, v.v.

Cũng là địa danh Rơba đó, miền này đã cưu mang trong mình nó các cộng đồng tộc người suốt chiều dài lịch sử từ khi có những con người đầu tiên đặt chân và sinh sống trên đó. Trong đó, người Fyan đã đi vào huyền thoại. Miền Rơba đã ôm lấy những con người sống và đưa vào lòng của nó – một con người – nhân chứng cuối cùng cho sự tồn tại của người Fyan. Ngày nay, người ta chỉ biết đến tên gọi này như một địa danh, cộng đoàn của một nhà Dòng. Ít ai biết được đã từng có người Kòn Cau, họ đã cùng sinh sống với nhau và tên làng của họ là Fyan. 

Rơba, tên gọi sao lạ thế! Nó lạ lẫm không phải bởi vì nó không còn được gọi một cách thường xuyên, không xuất hiện trong văn bản hành chính, sự lạ đó là sự ra đi, là sự mất mát của một thực thể – một loài cây tự nhiên mà tạo hóa đã ban tặng cho vùng này – plai rơba. Một giống cây xoài tự nhiên, chúng mọc khăp nơi và Kòn Cau đã gọi tên chúng như thế. Và vùng này cũng vì thế mà có tên gọi là Rơba.

Vào những cuối thập niên 90 của thế kỷ này, trái rơba gắn liền với tuổi thơ của bao người. Khi mùa hè đến, những lớp học đầu tiên trong vùng cũng hòa nhịp với đất trời, nhiều bạn trẻ được nghỉ ngơi sau chín tháng cặp sách đến trường. Ba tháng hè là ba tháng của niềm vui, của lao động, của sự sát cánh bên người thân, để hòa mình vào thiên nhiên vạn vật. Thời gian đó có khoảnh khắc cho việc “đuổi bướm hái hoa.” Ai ai cũng hớn hở vui tươi khi mùa hè đến. Rơba là một trái cây tự nhiên mà nhiều người yêu thích. Bạn trẻ không ngần ngại lên rừng, lội suối, bơi qua sông, để có thể tìm hái và thưởng thức vị ngọt tự nhiên của trái rơba. Đó cũng có lẽ là khoảng thời gian của sự giao thoa từ “lề luật cũ” sang “điều luật mới.” Mỗi khi cầm nắm trái rơba, người ta phải rửa tay trước khi cầm nắm cá sông, cá suối. Và chẳng ai dám chế biến các món ăn mà có sự hòa trộn chung giữa rơba và cá. Bởi lẽ đó là luật cấm – cộng đồng gọi là bañ – luật xưa buộc như vậy đó. Mục đích cũng là để tôn trọng và tham dự vào sự cân bằng trật tự của vũ trụ theo lối của người xưa.

Cũng là những trái rơba đó, các cụ cao niên từ miền xa đến nhìn thấy những trái rơba, đã phải nhờ các cháu nhỏ leo lên những cành cây cao để hái về. Bởi vì, rơba đâu phải miền nào cũng có đâu! Trái rơba nhỏ thôi, kích thước của nó đủ nằm gọn trong lòng bàn tay của người trưởng thành. Phần thịt thì có ít, vì hạt của nó to đến độ chiếm mất ⅔ quả rồi. Khi còn xanh, chẳng ai dám hái xong là đưa ngay vào miệng đâu, bởi lẽ nhựa của chúng có thể làm bỏng môi, lở miệng. Có nhiều người, da trên môi gần cửa miệng bị lở do nhựa trái rơba dính vào, nhưng vẫn cứ nhanh nhẹn trong việc trèo lên và tìm hái những trái chín trên cây. Vì những trái chín đó ăn thì ngọt vô cùng. Cũng thật lạ lùng! Nhiều trái sáng nay tuy già và có vẻ còn xanh lắm, khi chiều về nó đã gần như mềm vì chín rồi. Do đó mà, buổi sáng họ leo lên để tìm và đánh dấu những vị trí có trái sắp chín, buổi chiều lại leo lên để hái trái đã chín mà họ nhận diện sáng nay. Buổi sáng họ thừa biết nó sẽ chín, bèn ra đã định vị sẵn rồi, để khi chiều về tranh thủ hái mà ăn. 

Có quá nhiều ký ức để hồi tưởng, nhưng như vậy đã đủ để nói đến một vùng đất gắn liền với tự nhiên, mang lấy tên gọi thân thương. Nhưng có lẽ rơba không còn nữa, người ta chặt phá nó rồi, để nhường cho loài cây trồng khác vì lợi ích kinh thế của thời đại mới. Có lẽ vì thế mà địa danh Rơba cũng đi vào dĩ vẳng chăng?

Trong lòng mỗi người, Rơba không chỉ là một địa danh xa xưa, mà còn là biểu tượng của sự gắn bó với tuổi thơ và những kỷ niệm ngọt ngào của quãng thời gian trẻ trung. Trái rơba, một món quà tự nhiên từ thiên nhiên hoang dã, đã làm ngọt ngào mỗi kỷ niệm của những ngày hè trôi qua nơi miền núi cao. Không chỉ là một loại trái cây, rơba còn là biểu tượng của sự kết nối giữa con người và tự nhiên, giữa những truyền thống và nét đẹp văn hóa của dân tộc. Sự biến mất của cây rơba không chỉ là mất mát vật chất mà còn là mất mát văn hóa, một phần của kí ức và truyền thống được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi hạt trái rơba không chỉ chứa đựng vị ngọt tự nhiên mà còn chứa đựng những ký ức và tâm hồn của mỗi người, làm cho nỗi nhớ nhung về Rơba ngày càng sâu đậm trong lòng mỗi con người, giữa những thay đổi của thế giới hiện đại. 

Rơba chỉ còn lại trong kí ức của người xưa: 

“Rơba geh lài, Tân Rai tơnơ̆!”

Về Biên tập viên

Hãy kiểm tra thêm

Thức uống lên men, một nét văn hóa từ cổ xưa!

Pierre Le Roux Dưới sự chỉ đạo của Nicole Stâuble Tercier và Isabelle Raboud-Schüle, công …

Phụ nữ Bù Dih và một số apsara nguyên thủy của Angkor Wat

Phụ nữ Bù Dih và một số apsara1 nguyên thủy của Angkor Wat Tác giả: …

Bơrde tại lễ tế Thần ăn trâu truyền thống (Tac Nang nô tăm Bơrde)

(Lễ tế trâu ở một bản miền núi ở Haut Donnai – Bộ tộc Mà …

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.