Khi đặt chân lên vùng đất Tây Nguyên, bạn sẽ biết đến các địa danh gắn liền với lịch sử và văn hóa của những con người nơi cao nguyên này. Tuy nhiên, nhiều địa danh đã được Việt hóa, tên gọi mới dường như không diễn tả được ý nghĩa gắn liền với văn hóa của người Tây Nguyên. Mặt khác, những tên gọi mới có khi dị nghĩa hoặc vô nghĩa. Điều này rất rõ nét qua nhiều địa danh tại vùng đất Lâm Đồng. Ngày nay những tên định danh cũ gắn liền với lịch sử và văn hóa của cư dân Môn-Khmer (Nam Á) dường như đang được Việt hóa từ từ. Tuy vậy, trong dân gian, cộng đồng bản xứ vẫn thường hay dùng tên gọi theo truyền thống của họ về một vài địa danh, mặc dù báo chí, truyền thống, tài liệu, văn bản hiện hành có những tên gọi mới. Tại vùng đất Lâm Hà thuộc tỉnh Lâm Đồng, có một địa danh gắn liền với lịch sử và văn hóa, mà dường như ít ai biết đến, đó là Fiyang (Phi Yàng). Bài viết này, người viết muốn giới thiệu cho bạn đọc về nguồn gốc tên gọi này và nó có ý nghĩa gì?
Nguồn gốc
Fiyang là tên gọi của một làng của Kòn-cau, trước đây nằm tại thôn Bằng Tiên, xã Phú Sơn, Lâm Hà, Lâm Đồng. Thoạt nghe, chúng ta dễ dàng lầm tưởng rằng từ Fiyang bắt nguồn từ ngôn ngữ ngoại quốc nào đó, cụ thể là tiếng Pháp. Vì trước đây, trong thời Pháp thuộc, người Pháp đã đặt chân và có lập ra các đồn điền của họ tại vùng đất này.
Tuy nhiên, Fiyang lại là tên gọi bắt nguồn từ truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời của Kòn-cau. Trước đây, người viết cũng đã từng đề cập đến và trình bày trên trang Facebook cá nhân của mình, về gốc gác tên làng trong cộng đồng Kòn-cau. Để không mất đi nội dung được trình bày trước đó, nay người viết xin trình bày lại như sau:
Dựa vào những trang đầu của sử thi được ông Krajan Plin biên tập, “Mà” (Mạ) là tên gọi chung đầu tiên xuất xứ từ ngọn núi Tau Dung – Tau Drà, rồi từ đó phân ra nhiều nhánh bao gồm Mạ Thượng Nguồn (sông Đạ Đờn), Mạ Trung Nguồn và Mạ Hạ Nguồn.
Mạ thượng nguồn gồm: Mà Phi Brơi, Mà Phi Kŏ, Mà Phi Dĭh, Mà Phi Ja, Mà Phi Sur, Mà Phi Srồñ, Mà Phi Sur, Mà Phi Keh, Mà Phi Tòng, Mà Phi Liêng, Mà Phi Bơnơm, Mà Phi Đơ̆m, Mà Phi Tô, Mà Phi Jŭt, Mà Phi Trô̆, Mà Phi Yàng, Mà Phi Lạch, Mà Phi Srai (Sre). Bắt nguồn từ sự dịch chuyển từ việc làm lúa rẫy chuyển sang làm lúa nước, từ đó người Mạ hình thành nhiều chi tộc khác nhau gắn liền với địa lý và công việc mưu sinh. Mạ trung nguồn gồm các nhánh từ Dilinh đến thành phố Bảo Lộc. Các chi tộc này biến hạn từ “Phi” thành “Bơ”: Mà B’Lao (Mạ Bơ Lao), Mà B’Dơr (Bơ Dơr), Mà B’Kò (Bơ Kò), Mà Bơ Su (B’Su), Mà Bơ Trồ (B’Trồ) v,v. Mạ hạ nguồn gồm: Mà Dà Mri (Dạ Mri), Mà Ploa, Mạ Dà Gồeh (Mạ Madagui), Mà Dà Cat Tiên (Mạ Cát Tiên), Stiêng, Cro, v.v. Nhánh này biến hạn từ “Bơ” thành “Bu” như Bu Đăng, Bu Dồp, Bu Prăng, v.v.
Sau này có các tên gọi khác như: Mà Tờm, Mà Tô, Mà Krŭng, Mà Xôp. Phần lớn người Mạ trung và hạ nguồn có tổ chức xã hội khá cao, có thể do ảnh hưởng từ vương quốc Mạ xưa.
Một số cư dân Mạ sống dọc theo sông Krông Nô chịu ảnh hưởng ngôn ngữ của người anh em M’Nông khác nên ngôn ngữ có sự khác biệt. Sau nay, họ được xếp vào một trong các nhánh của người M’Nông như M’Nông Gar, M’Preh, M’Nông R’Lơm, v.v. Về văn hóa, tín ngưỡng cổ truyền có nét tương đồng với người Mạ ở các vùng khác.
Ngày nay, nói đến núi Ta Đùng, các cư dân sống xung quanh vẫn được nhiều báo chí và khách du lịch biết đến với tên gọi là người Mạ. Tên gọi K’Ho chi mới xuất hiện trong thời Champa, văn mình lúa nước cũng chỉ mới phát triển hơn một ngàn năm trước.
Và khi nói đến người Mạ, có lẽ nhiều người chỉ biết đến các cư dân Mạ trung và hạ nguồn. Tuy nhiên, không chỉ tại núi Tau Dung, Tau Drà và một vài địa phương thuộc Đắk Lắk và Đắk Nông, nhiều cư dân tại chỗ vẫn tự nhận mình là người Mạ. Tên gọi K’Ho không phải là tên một tộc danh, tên gọi này xuất hiện trong thời Champa. Truyện cổ miền Jrềng có nói đến câu chuyện Cơi Kơ Ho. Kơ Ho là một chàng trai của người Sre (Jơi Sre – chi tộc Sre), do cặp kè với con gái vua chúa Champa, tên là Nai Tơ Lŭi trong thời hạn nô dịch cho Champa, cả hai người bị mang vào rừng thiêng nước độc để chịu chém đầu. Nhưng quân lính thương xót và đã hạ sát hai con chó đi cùng để lấy máu làm bảo chứng rằng họ đã thi hành án. Sau một thời gian, Kơ Ho trở nên giàu có và có uy thế, trở thành chủ làng. Khi nạn đói ập đến miền Champa, các vua chúa đã chạy lên miền núi nương nhờ và được Kơ Ho giúp đỡ, kết nối lại mối tương giao.
Thật ra, thời bấy giờ, vua chúa Champa thương kết nối bàng giao với các tộc người miền núi liên quan đến chiến sự trong cuộc Nam tiến của người Việt. Nên việc gã con cái cho tộc người miền núi là chuyện bình thường. Mặt khác, cả truyền thống lẫn khoa khảo cứu đều cho biết rằng, Champa đã từng đô hộ các bộ lạc ở phía đông, trong đó có một bộ lạc của Mạ Tô, nên mới có chuyện phu công nô dịch theo định kỳ. Ngày nay, có các địa danh như Kòn Pàng, Kòn Oh, Kòn Hền là của người Mạ Tô tại Tân Thanh. Do đó, sử sách cũng có viết về một vài vua chúa, tướng lãnh Champa là người miền núi. Trong bia đá Champa, từ K’Ho xuất hiện vào những năm 1471, ám chỉ tộc người Môn-Khmer trên miền núi khác văn hóa Champa. Khi các cha cố đặt chân lên miền cao nguyên Lâm Viên, các ngài đã tạo ra chữ viết cho cư dân Môn-Khmer này và lấy tên là K’Ho. Từ đó tên gọi K’Ho trở nên thông dụng như ngày này. Tuy nhiên, Người Mạ phía nam không bị đô hộ và với tâm lý tộc người cao. Họ vẫn giữ được tên gọi nguyên thủy của mình. Như vậy, sử thi dường như là cơ sở vững chắc, dữ kiện từ khoa khảo cứu là cứ liệu minh chứng thêm trong đó có kết quả từ khoa khảo cổ học. Khoa khảo cổ họ cũng tìm thấy rất nhiều dấu tích của người Mạ hầu khắp Nam Tây Nguyên.(1)
Như vậy, từ “Phi,” “bơ” hay “bu” đều là phó từ. Khi đứng một mình ( tách ra khỏi tên địa danh, công việc mưu sinh, đặc điểm làng, v.v kể trên), chúng mang nghĩa khác biệt nhau, tùy từng phương ngữ. Nhưng khi đi kèm theo tên gọi kể trên, phó từ này mang nghĩa là “người.” Vd: Mạ Phi Sur: người Mạ nuôi heo, Mạ Phi tô: Người Mạ sống trên cao, Mạ Phi sre: Người Mạ làm ruộng, Mạ Phi Srônh: người Mạ sống gần thác suối Srônh, v.v.
Qua dữ kiện trên đây, chúng ta nhận thấy rằng, Fiyang là tên gọi một làng của người Mạ thượng nguồn. Ngày nay, làng này và dân chúng dường như đã bị tuyệt chủng, vấn đề này là một vấn đề lớn liên quan đến lịch sử.
Fiyàng, một sự kiện lịch sử (2)
Liên quan đến chiến sự trong thời Pháp thuộc, người Fiyàng chỉ còn là làng của những con người trong quá khứ lịch sử. Khi đồn điền cà phê phát triển và mở rộng về diện tích, cũng là lúc bà con nhận ra họ cũng đang dần mất đi những gì thuộc về họ. Con trai chủ đồn điền bị giết bởi những người công nhân làm việc cho chủ đồn điền. Một kịch bản được dàn dựng tỉ mỉ, người ta cho là dân làng Fiyàng đã giết con trai chủ đồn điền, quân đội lập tức được kéo đến san bằng ngôi làng Fiyàng. Người dân bị áp giải trong 4, 5 chiếc xe tải, đưa đi lưu đày tại Côn Đảo, chỉ có những người vắng mặt và một số thanh niên khỏe mạnh, chạy thoát được và trốn sang làng R’Teng và Fi Sur bấy giờ. Sau khi giải phóng duy chỉ một cụ già sống sót và quay về lúc tuổi đã xế chiều. Chân cụ bị tàn tật vì bị nhốt trong thùng phuy suốt mấy chục năm. Cụ đã qua đời vào những năm 1980.
Khi các cha cố Canada đặt chân lên vùng đất ngày này là Lâm Hà vào năm 1963, các ngài đã lập nên điểm truyền giáo tại R’Ba (nay là Phú Sơn). Vùng truyền giáo này rất rộng, dường như bao hàm cả một huyện. Sau đó, các ngài đã lập nên một cộng đoàn, gọi là nhà Fiyang cho đến ngày nay. Có lẽ, các ngài muốn tưởng nhớ đến sự kiện lịch sử đó.
Như vậy, Fiyang là một địa danh nhỏ bé, nhưng nó mang trong mình giá trị lịch sử và văn hóa to lớn. Các bạn trẻ Kòn-cau cần ý thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hóa. Các bạn cần tích cực tìm hiểu về lịch sử, văn hóa và truyền thống của cộng đồng mình. Tiếng nói của chúng mình cũng cần được bảo vệ và phát huy, bởi nó là linh hồn của văn hóa. Fiyang là một ví dụ điển hình cho thấy tầm quan trọng của việc hướng về nguồn cội. Mỗi người trẻ tri thức hãy trở thành cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, để gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa độc đáo của cộng đồng.
Người con Fyan
–——–
1 x. Lâm Đồng Provincial Portal, “Đà Lạt điểm hẹn năm 2000,” truy cập ngày 23-12-2023, https://lamdong.gov.vn/sites/book/diemhen2000/bai6.htm.
2. Câu chuyện này dựa theo lời kể của cô giáo K’ Uyên miền Ryông Tô, một vài vị cao niên khác trong vùng cũng thường nhắc đến.