KHÁM PHÁ MỘT ĐÀN ĐÁ TIỀN SỬ THỨ BA TẠI VÙNG MNONG-MAA (MIỀN TRUNG ĐÔNG DƯƠNG)
Chiếc đàn đá thời tiền sử đầu tiên được phát hiện vào tháng 2 năm 1949 tại địa điểm Ndut Lieng Krak, một làng Mnong Gar ở tỉnh Darlac. Nó đã được ông Schaeffner và chính tôi mô tả và nghiên cứu (1). Chiếc đàn đá thứ hai, nhỏ hơn nhiều, hiện đang ở Los Angeles cùng với ông Claire Omar Musser, người đã mua nó từ một đại úy trong quân đội Mỹ. Chiếc đàn đá thứ hai này có lẽ đã được khai quật trong quá trình đào bằng máy ủi đường ray “ở An Nam”; đây là vị trí duy nhất mà chúng tôi có thể có được từ chủ nhân của nó; chúng tôi không biết thuật ngữ này ám chỉ “An Nam” cũ, tức là miền Trung Việt Nam, hay chính Việt Nam. Nó bao gồm bảy thanh đá, một trong số đó đã bị gãy; Giáo sư Jaap Kunst, nhà âm nhạc học nổi tiếng người Hà Lan, đã có thể nghiên cứu nó với người chủ hiện tại của nó ở Los Angeles (2).
(1) Báo cáo của Viện Nhân học Pháp (01-12/1950), tr. 15-17, phiên họp ngày 21 tháng 6 năm 1950, thông tin liên lạc của G. Condominas và A. Schaeffner, nhưng đặc biệt hãy xem các nghiên cứu chi tiết hơn sau đây:
Condominas (G.). “Đàn đá thời tiền sử của Ndut Lieng Krak.” Bull. EFEO, t. 45, 1951, fasc. 2, pp. 359-392, fig. 42-65 (bản đồ, hình), 2 bảng, bibl. và pl. 41-45.
Schaeffner (A.). “Một phát hiện khảo cổ học quan trọng, chiếc đàn đá thời tiền sử của Ndut Lieng Krak” (Việt Nam). Revue de Musicologie, t. 33, nos 97-98 (tháng 7 năm 1951), pp. 1-19, pl. I.
Các nhà âm nhạc học khác, MM. H. Husmann và P. Kirby, đã xuất bản các bài viết về đàn đá Ndut Lieng Krak. Ông Schaeffner có ý định đề cập toàn bộ câu hỏi này trong một bài báo sắp được xuất bản.
(2) Thông tin được truyền đạt bởi MM. H. Kirby và A. Schaeffner. Anthropologie, t. 62, nos 5-6, 1958.
Cuối cùng, ông Boulbet, chủ đồn điền ở Blao, đã có cơ hội nhìn thấy và nghe thấy chiếc đàn đá thứ ba ở đất nước Maa; ông đã rất tốt bụng khi tập hợp lại thành một bài báo những ghi chú mà ông đã ghi lại tại chỗ. Chúng ta hãy nhớ rằng người Maa’, giống như người Mnong Gar, là người Đông Dương nguyên thủy của Việt Nam và, giống như người Đông Dương nguyên thủy, họ thuộc ngữ hệ Môn-Khmer. Cũng chính trong thuật ngữ Mnong-Maa’ này mà tôi đã quen với việc chỉ định tất cả các bộ tộc gốc Đông Dương nói tiếng Môn-Khmer định cư ở vùng núi miền Trung Nam Việt Nam và phía Đông Campuchia ở phía nam của nhóm Malayo-Polynesian (Rhadé, Bih, Jôrai, v.v.).
Khám phá của ông Boulbet rất quan trọng. Ông đã nhìn thấy chiếc đàn đá đang được chơi, thấy nó được hồi sinh theo một cách nào đó, và có thể nghiên cứu cách nhạc cụ thời tiền sử này được đưa trở lại sử dụng bởi những người đương thời, những người dường như không phải là hậu duệ của nhóm đã tạo ra nó (điều này xác nhận giả thuyết mà tôi đã bày tỏ về chiếc đàn đá đầu tiên liên quan đến hành vi tương lai của người Mnong Gar nếu tôi không lấy nhạc cụ này). Cuối cùng, chiếc đàn đá thứ ba này cũng được tìm thấy ở khu vực miền núi hiện đang có người Đông Dương sinh sống; nó cũng giống như hai cái kia, được đào lên sau một thời gian dài nằm trong lòng đất và được tạo ra bởi một nhóm dân tộc đi trước những người cư trú hiện tại ở vùng này, nhưng thuộc cùng một nhóm văn hóa. Cũng sẽ rất thú vị khi biết vị trí chính xác của chiếc đàn đá thứ hai, điều này có thể chỉ ra trên bản đồ phạm vi tối thiểu của khu vực bị chiếm giữ bởi những nhà sản xuất nhạc cụ bằng đá phi thường này, những người thực hành chạm khắc kiểu Bacsonian. Mong rằng sẽ sớm có thêm nhiều khám phá như thế này nữa.
G. Condominas, Thạc sĩ nghiên cứu tại ORSTOM
Đàn đá (goong lu’) của làng Bboon Bôrdee (Maa’ Daa’ Dôong)
Vị trí (xem bản đồ)
Bôrdee là một làng Maa’ (tiểu bộ tộc Maa’ Coop). Người Maa’ là một trong những bộ lạc nguyên thủy Đông Dương quan trọng nhất ở miền Nam Việt Nam và chiếm giữ lưu vực giữa của Daa’ Dôong hoặc Đồng Nai (tỉnh Djiring, huyện Blao, bang Maa’ Daa’ Dôong). Làng nằm ở vĩ độ 13° Bắc và kinh độ 106°90 Đông (do đó 90 km theo đường chim bay về phía nam Ndut Lieng Krak).
Chiếc đàn đá, về mọi mặt tương tự như của Ndut Lieng Krak (G. Condominas, xem ghi chú 1 ở trên), được phát hiện tại một địa điểm tên là Ddang Kroec, một sườn đất đỏ bazan ở độ cao từ 500 đến 600 m. Như trong toàn bộ khu vực, các sườn của sống núi này nằm trong lớp đất đá phiến và phần đỉnh nằm trong lớp đất cơ bản từ khoảng độ cao 500 m. Ddang Kroec là một nhánh của Ddang Rteet (sườn vẹt đuôi dài), là một phần của khối núi Ddang Dôr Muu giữa lưu vực sông Daa’ Dôong và nhánh tả ngạn của nó, sông Daa’ Lai. Toàn bộ khối núi này có nhiều cây cối rậm rạp; bụi tre, sự tái sinh của tia cổ xưa, chỉ thực sự bắt đầu ở Ddang Kroec.
Hình 1. — Trên sườn núi giữa Daa’ Lai và nhánh hữu ngạn Daa’ Rsui: • Trường hợp K’Brus; X Ddang Kroec.
Tại vị trí chính xác của phát hiện, khu rừng đã bị suy thoái thành rừng tre, chứng kiến nhiều chu kỳ trồng trọt, trong khi khu rừng rậm rạp rộng lớn nằm ở rìa cách đó vài trăm mét trên đỉnh Ddang Kroec.
Hình 2. — Đàn đá của Bboon Bôrdee.
Hoàn cảnh khám phá
Khi đốt một bãi đất trống mới (Bôrdee chỉ trồng trọt trên một bãi đất trống trong một năm), K’Siông ngạc nhiên trước âm thanh du dương do một tảng đá tạo ra dưới đầu luống lúa (rmuul) của anh. Anh ta tìm kiếm trái đất xung quanh, thả một hòn đá dẹt, đập vào nó và thu được âm thanh thậm chí còn rõ ràng hơn. Anh ta kiểm tra những viên đá gần đó và phát hiện ra năm viên đá khác có khả năng cộng hưởng âm nhạc. Anh ta dọn sạch chúng và đặt chúng vào một góc rừng.
Bảy đêm sau khi phát hiện, K’Siông đã có một giấc mơ. Vào thời cổ đại, sáu người đàn ông đang bận rộn xây dựng hàng rào chắn của khu đất trống đầu tiên ở Ddang Kroec vẫn còn trinh nguyên, đã bất ngờ trước nhật thực và biến thành đá; do đó nguồn gốc của sáu goong lu’. Giấc mơ được cho là tốt lành, K’Siông liền mang chiếc đàn đá về nhà mình để làm lễ phong thánh dứt khoát.
Lịch sử
K’Broih, chủ nhân hiện tại của goong lu’, là hậu duệ trực tiếp của người phát hiện và được cho là thuộc tộc K’Siông (mpôol K’Siông), vì người Maa’ theo chế độ phụ hệ.
K’Siông A —j— O Haang
Trương A —|— O K’Ili
Choc A |— The Griot of Good News
Khóa A Tăng Blang - Anh Sẽ Ở Đó Vì Em
nướng A
Ba goong lu’ (Mai, Rdoom, Rdôôn) hiện ở nhà K’Broih. Ba cái còn lại (Thong, Trôô, Koon) dường như đã bị mất trong vụ cháy ở làng Bboon Ding Saac (thung lũng Daa’Ngar, phụ lưu sông Daa’Teh, phụ lưu tả ngạn sông Daa’ Dôong). Quả thực, vào thời K’Chôe, làng này đã mượn đồ trong dịp cúng trâu lớn và do chậm trả nên chúng vẫn ở Ding Saac khi đám cháy bùng phát. Không có thỏa thuận nào xảy ra vì người đi vay có cùng huyết thống. Nhưng kể từ sự kiện này, ba goong lu’ còn lại không còn rời khỏi túp lều K’Broih nữa.
Sử dụng hiện tại
Vào ngày 23 tháng 5 năm 1958, lần đầu tiên tôi có cơ hội được nhìn và nghe thấy chiếc đàn đá nổi tiếng (goong lu’) mà tôi đã biết từ rất lâu. Bởi chỉ có các tế lễ lớn mới có cớ đủ xa hoa để rước ba vị này ra khỏi giỏ đặt dưới bàn thờ trong nhà. Những tấm đá phiến được đập bằng búa, đặt phẳng trên đùi người chơi và dùng gậy đánh nhịp nhàng, tạo ra những âm thanh mạnh mẽ và rõ ràng. Goong lu’ sau khi hiến tế được xức huyết trâu rồi đặt lại vào thúng. Chúng chỉ được mang ra để “ăn trâu”.
Hình 3. — Đàn đá của Bboon Bôrdee.
Sự miêu tả
Không có bất kỳ dụng cụ đo lường nào trong tay, tôi chỉ có thể đo kích thước của goong lu’ với một xấp xỉ khá rộng:
Tên | Chiều dài | Chiều rộng | Độ dày |
---|---|---|---|
Mai | 65 cm | 15 cm | 3 đến 4 cm |
Rdoom | 62 cm | 15 cm | 3 đến 4 cm |
Rdôôn | 60 cm | 15 cm | 3 đến 4 cm |
Bề mặt không đánh rất mượt và lịch sự. Ở mặt đánh, phía Đông, búa ngoại trừ ở giữa, hơi cong và đánh bóng bằng gậy.
Trọng lượng ước tính: 7 đến 8 kg.
Những goong lu’ này trông giống đá phiến sét, nhưng nặng hơn đá phiến sét có cùng thể tích. Chắc chắn đó phải là đá phiến biến chất.
Jean Boulbet
NHÂN HỌC
CHIẾT XUẤT
T. 62, nos 5-6, 1958
KHÁM PHÁ MỘT ĐÀN ĐÁ TIỀN SỬ THỨ BA TẠI VÙNG MNONG-MAA (MIỀN TRUNG ĐÔNG DƯƠNG)
MASSON ET Cie, NHÀ XUẤT BẢN
NHÀ BÁN SÁCH CỦA HỌC VIỆN Y HỌC
120, BOULEVARD SAINT-GERMAIN, PARIS
Quỹ tài liệu ORSTOM